1 Chị đội – Chị nữ đội-trưởng “Ðội Cải-cách Ruộng-đất”
2 Bồi-dưỡng – Bồi-dưỡng lý-luận, giải-thích chính-sách, xui nghe theo đường lối của Ðảng.
Trước kia chính-quyền Việt Minh chi sống về lạm-phát, nhưng sau khi ban bố thuế nông-nghiệp bỗng nhiên trở thành chủ-nhân-ông toàn thể ruộng-đất của nhân dân, biến tất cả trung-nông và bần-nông thành tá-điền của mình. Số phận địa-chủ lại càng đen tối bội-phần. Trên nguyên tắc thì cho đến 1954 địa-chủ vẫn có quyền thu tô, nhưng thực-tế thì họ không thu được hột nào từ 1951 trở đi. Vì phần lớn bần cố nông là tá-điền của họ đã thành ông nọ bà kia trong ủy-ban Hành-chính Kháng-chiến xã nên không một địa-chủ nào có gan giám đòi họ nộp tô mặc dầu họ cứ vẫn phải ráng sức kiếm đủ thóc để nộp thuế nông-nghiệp.
Thiếu thóc để nộp thì họ phải ra chợ đong thêm. Vì trước kia họ đã tích cực ủng-hộ nào là “tuần lễ vàng” nào là “ủng-hộ bộ-đội địa-phương”, nên hầu hết đã hoàn toàn khánh-kiệt. Dần dà họ phải bán đến trâu bò rồi hết trâu bò phải bán đến vòng xuyến, hoa tai, nồi niêu. Vào khoảng từ 1952 đến I954 đồ cổ bán đầy chợ. Một chiếc độc-bình đời Tống bán rẻ hơn một chiếc chậu nhôm buôn lậu tự vùng tề vào.
Một kỳ thu thuế nông-nghiệp là một chiến dịch. Chính-quyền Việt-minh hô hào thi đua nộp nhanh và “phơi khô quạt kỹ”. Vì hồi Nhật thu thóc (hồi Nhật chiếm đóng) cán-bộ Việt-minh xui dân ngâm thóc vào nước cho nặn cân, nên lần này, dân cũng ngâm thóc, cho nặng cân. Nhưng cán-bộ Việt-minh không chịu bị lừa, nhất thiết bắt phải “phơi khô quạt kỹ”. Muốn làm nhục địa-chủ, cán-bộ thu bắt địa-chủ phải gánh thuế đi nộp, nhiều khi cách nhà chừng 15 cây số. Ðến nơi thì cán-bộ cân cho bần-cố-nông trước, còn phú-nông, địa-chủ thì phải chờ hết ngày hết buổi, có khi ngày này sang ngày khác. (Bần-cố-nông được biệt đãi trong mọi trường hợp, tỉ-dụ như ở bệnh-viện, bần cố nông bao giờ cũng được khám bệnh trước mọi người).
Bị phá sản về thuế nông-nghiệp, nhiều địa-chủ tìm cách bán bớt ruộng hoặc đem cúng cho chính-phủ. Nhưng 1953 trở đi thì cấm ngặt không được phép bán, và đồng thời hủy bỏ những vụ bán ruộng đất cho bần-cố-nông. Ruộng đã chót bán cho bần-cố-nông, thì người mua cứ việc giữ ruộng, nhưng ngườI bán phải hoàn lại tiền. Những địa chủ đã hiến ruộng cho chính-phủ, thì chính-phủ cứ giữ ruộng nhưng địa-chủ phải tiếp tục nộp thuế nông-nghiệp. Chỉ riêng những người thành-thị tản cư về nông thôn và theo lời “Cụ Hồ” tậu một vài sào ruộng để “tự lực cánh sinh” và “hòa mình với nhân dân” là được phép hiến ruộng, nhưng muốn “được” nông-hội địa-phương chiếu-cố nhận “giùm cho” thì người hiến ruộng phải hiến thêm trâu bò cày, đầy đủ nông cụ và một số vốn để mua thóc giống.
Trong mấy năm đầu, Việt-Minh phong tỏa những vùng Pháp chiếm đóng, để ngăn cản không cho quân đội Pháp mua lương-thực và mua vật liệu để sửa chữa lại những nơi bị chiến tranh tàn phá. Vì vậy nên việc buôn lậu giữa hậu phương và vùng tề bị cấm ngặt, và hàng lậu bắt được bị tịch thu và đem đốt trước công chúng, trừ thuốc lá thơm và một vài xa-xí phẩm thì đem biếu cán-bộ cao cấp.
Vì bị Việt-Minh phong tỏa nên Pháp thực sự thiếu lương thực. Lúa gạo phải mang bằng đường thủy từ trong Nam ra, còn thịt phải tải từ Cam-bốt đến Hà-Nội bằng máy bay. Giá sinh-hoạt trong vùng tề cao hơn giá sinh-hoạt trong vùng Việt-Minh kiểm soát rất nhiều. Nhưng chính sách phong tỏa còn gây một ảnh-hưởng khác. Vì hàng hóa công-nghệ không lọt được vào vùng Việt Minh, nên hàng nội-hóa bán rất chạy. Nhiều nhà công nghệ nghĩ cách chế được nhiều mặt hàng tương đối giản dị như vỏ xe đạp, các đồ phụ-tùng xe đạp, một số máy móc đơn sơ, như máy in tay chẳng hạn. Một số chuyên-viên chế được những hóa-phẩm căn bản như acide sulfurique, carbonate de soude, rượu 90 độ, và nhờ những thức này chế thêm được nhiều thức khác. Kết quả là dù bị cắt đứt với thế-giới bên ngoài, dân chúng trong vùng Việt-minh vẫn tự lực cánh-sinh, sống tương-đối đầy đủ. Họ có, nào là sà-phòng, sà-phòng đánh răng, diêm, giấy các-bon, ống tiêm chích thuốc (nhưng không làm được kim), éther, pénicilline nước, vân vân…
Tóm lại, công-nghệ hậu-phương chỉ còn thiếu hai thứ : kim-khí và nguyên động-lực. Nhưng nhờ ở sáng-kiến cá-nhân vấn-đề này cũng giải-quyết được một phần. Máy xe-hơi và máy xe lăn đường, vì không còn đường nữa, dùng để kéo máy tiện, máy cưa v.v… Thác nước thuộc hệ-thống nông-giang biến thành máy thủy-điện và một nhóm kỹ-sư thành-công trong việc xây một “lò cao” sản-xuất mỗi ngày ba tấn gang. Ðặc điểm của lò cao này là chỉ cao có 9 mét, trong khi theo nguyên tắc, lò cao thấp nhất cũng phải cao 13 mét. Một phái đoàn Ðông Ðức tới thăm, vào năm 1954 tỏ ý hết sức thán phục kỹ-thuật của các chuyên viên phụ-trách. Ðường rầy xe lửa cùng “tà vẹt” trở thành một nguồn thép vô tận, vỏ bom napan và xác máy bay bắn rơi biến ngay thành nồi niêu xoong chảo bằng nhôm. Mặc dầu so với mức sống tân tiến, tình hình hậu phương không có gì là “khả quan”, nhưng ngoại trừ công chức bị túng-thiếu vì mỗi tháng chỉ được có mấy chục cân gạo, còn ngoại giả dân chúng đều sống tương đối dễ dàng, không một ai thất-nghiệp. Nhưng chẳng bao lâu Việt-Minh đình chỉ chính sách khuyến khích công nghệ nội hóa, vì sau khi cố-vấn Trung Cộng sang, họ giảng cho Việt-minh hay là nếu có khuyến khích công nghệ tư nhân thì tức là gây mầm cho chế-độ tư-bản. Từ đấy Việt-minh đổi ngược lại chính sách, làm khó dễ những người sản-xuất hàng nội hóa và đồng-thời mở rộng kiểm soát cho hàng Pháp tràn vào. Nhiều thủ-công nghiệp bắt buộc phải đóng cửa vì không thể nào cạnh tranh lại hàng hóa của Pháp, và trong nhiều trường hợp, cả chủ lẫn thợ kéo vào các thị-trấn do Pháp kiểm-soát để kiếm kế sinh nhai, vì từ ngày Việt-minh đình chỉ việc phong-tỏa kinh tế, đời sống trong vùng Pháp chiếm đóng bỗng nhiên phồn thịnh hẳn lên.
Ðể tiến tới xã-hội chủ-nghĩa, chính-phủ Hồ-chí-minh áp dụng hai chính-sách mới : đánh thuế “Công Thương Nghiệp” và thành lập “Mậu-dịch Quốc-doanh”. Dĩ-nhiên Mậu-dịch Quốc-doanh chỉ có nghĩa là chính-quyền nắm độc quyền thương-mại trong toàn quốc.
Về đại-cương thì Thuế Công Thương Nghiệp cũng giống thuế Nông Nghiệp, nhưng cũng có hơi khác về thuế biểu và về cách thức tính thuế. Thuế Công Thương Nghiệp phải nộp hàng tháng, không phải một năm hai vụ như thuế Nông Nghiệp. Thuế Công Thương Nghiệp đánh vào lợi-tức, không đánh vào thu hoạch, và mức tối đa chỉ có 28 phần trăm, trong khi mức tối đa của thuế Nông Nghiệp lên tớI 64,68 phần trăm. Trên nguyên tắc thuế Công Thương Nghiệp có phần hợp lý và nhẹ hơn thuế Nông Nghiệp. Cách tính thuế Công Thương Nghiệp như sau :
1. Ước định số “thu” của mỗi người công thương.
2. Tính số lời, bằng cách nhân số “thu” với một con số “lợi nhuận” do Bộ Tài-chính ấn-định cho từng nghề nghiệp (Thí-dụ lợi-nhuận của nghề bán tạp-hóa định là 30 phần trăm, hàng ấn định là 50 phần trăm . Việt-minh cho rằng làm những nghề ấy thì phải lãi băng ấy).
3. Sau khi tính được lợi-tức của một công, thương gia rồi thì mang bản thuế-biểu do Bộ Tài-chính ấn-định xem với số lợi-tức ấy, họ đứng vào loại nào và phải đóng bao nhiêu phần trăm, đại khái cũng như tính thuế Nông Nghiệp, Thuế Công Thương Nghiệp cùng lũy-tiến, xê dịch từ tối-thiểu 15 phần trăm đến tối đa 28 phần trăm.
Như vậy là muốn tính thuế cho một công, thương gia chỉ cần biết số thu hoạch của họ, vì một khi đã có con số này thì chỉ việc đối chiếu với ban lợi-nhuận và ban thuế biểu của chính-phủ mà nhân lên là tính được ngay. Số phận của mỗi công, thương gia đều do con số thu-hoạch chi phối.
Dưới chế-độ Việt-minh, mỗi công, thương gia phải giữ một cuốn sổ chi thu, ghi chép đầy đủ mọi việc buôn bán. Mỗi lần bán ra một món gì, dù là bán nước, bán trâu đều phải làm ba bản hóa-đơn, giữ một bản, giao cho người mua một bản và nộp cho Sở Thuế một bản. Tuy nhiên những sổ sách và hóa-đơn này chỉ cốt để tiện việc cho chính-phủ kiểm tra, nếu cần, không phải để tính thuế, vì tính thuế là công việc của nhân dân, không phải trách nhiệm của chính-quyền. Dưới chế-độ dân chủ nhân dân, chính-phủ chỉ việc giơ tay thu tiền, còn tính thuế và thu thuế là việc của nhân-dân vì Ðảng cho rằng nhân dân lúc nào cũng “sáng suốt”, không cần đến sổ sách, giấy tờ. Khẩu hiệu lúc bấy giờ là : “Phải hoàn toàn tin ở quần chúng”.
Ðảng giao việc thu thuế cho nhân dân vì Ðảng coi việc nộp thuế là một “hân hạnh” không phải là một “nghĩa vụ” như ở các nước tư-bản. Mỗi công dân phải vui vẻ đóng thuế để góp phần vào công việc xây-dựng xã-hội chủ-nghĩa. Vì đóng thuế là yêu nước nên mọi người đều nói “được đóng thuế” và không ai nói “phải đóng thuế”. Từ nguyên tắc “đóng thuế là một hân-hạnh, một đặc ân” nẩy ra hai nguyên-tắc phụ. Thứ nhất, là không phải bất cứ ai cũng được “hân hạnh” đóng thuế, và thứ hai là nhân dân sẽ sẵn sàng giúp đỡ những người không xứng đáng với “đặc-ân” đó, hoặc chạy không đủ tiền để làm trọn “hân hạnh”. Chúng ta hãy đi sâu thêm vào chi tiết của hai điểm này.
Tại sao được nộp thuế lại là một đặc ân ? Ở dưới chính thể dân-chủ nhân-dân, người công-dân không có quyền tự-do kinh-doanh, và đây là đặc-điểm quan-trọng nhất làm cho chế-độ dân-chủ nhân-dân khác hẳn chế-độ dân-chủ tư-sản”. Muốn mở một công-nghệ hoặc một hiệu buôn thì trước tiên phải nộp đơn xin phép Mậu dịch vì Mậu-dịch kiểm soát tất cả công thương trong vùng. Khi Mậu-dịch cho phép rồi, lại phải làm đơn xin phép Ủy-ban Hành-chính địa-phương, vì có một số nghề mà một số người không được làm. Ðịa-chủ, chẳng hạn, không được phép bán hàng cơm và làm nghề cắt tóc. Ðơn nộp cho ủy-ban Hành-chính, nhưng chi-bộ cho hay không, là quyền bí-thư chi-bộ Ðảng, vì chỉ có Ðảng mới biết rõ thái-độ chính-trị của đương sự. Nếu đương sự được phép mở cửa hàng rồi, mà sau này chi-bộ mới tình nghi là “phản-động” thì công-an ăn mặc thường-phục túc trực trước cửa, hỏi giấy thông hành của tất cả người mọi ra vào. Vì vậy nên ai được “hân hạnh” nộp thuế tức là còn được tự-do kinh doanh, một thứ tự-do quý báu gấp bội tự-do chính-trị mà báo-chí tư-sản vẫn thường ca tụng, vì mất thứ tự-do này thì toàn gia phải chết đói. Chính vì mọi người sợ mất “hân hạnh nộp thuế” mà toàn dân không dám cưỡng lại chính-quyền Cộng-sản.
Nhân dân giúp đỡ như thế nào ? Mặc dầu Ðảng đã giảng dậy rất kỹ lưỡng và nhắc đi nhắc lại là nộp thuế là một “hân hạnh”, lác đác vẫn có những người không hiểu rõ tầm quan trọng của cái “hân hạnh” ấy và không tích-cực nộp thuế như Ðảng đã dặn, không chịu khai đúng con số thu-hoạch, hoặc là không khai đúng với sự ước lượng của cán-bộ. Trong những trường hợp như vậy thì nhân dân trong phố, hoặc trong làng sẽ giúp những người “đảng trí” nhớ lại con số thu-hoạch của mình.
Việc giúp đỡ này thể-hiện bằng hai hình-thức, hai cuộc “bình”.
Bắt đầu là một cuộc họp của tất cả những người cùng hành một nghề trong địa-phương, cùng một xã hoặc cùng một khu phố. Họ mổ xẻ công việc buôn bán của mỗi người rồi lập một danh sách kể từ người thu-hoạch nhiều nhất xuống dần đến người thu-hoạch thấp nhất. Công việc xếp đặt theo thu-hoạch nhiều ít này được gọi là “bình dọc” vì mục-đích chỉ là lập một danh sách “dọc” từ trên xuống dưới, từ người thu-hoạch nhiều nhất đến người thu-hoạch ít nhất. Ðảng nói rằng “bình dọc” như vậy rất đúng vì chỉ có những người cùng hành một nghề mới rõ ai hơn ai kém. Nhưng chủ tâm của Ðảng là bắt những người cùng hành một nghề “bình” lẫn nhau thì họ sẽ vì ghen tị mà tố cáo lẫn nhau không cần phải tra khảo, tự nhiên mọi gian lận sẽ lòi ra hết.
Sau đấu là một cuộc họp thứ hai, nhưng lần này tất cả công, thương gia trong một phố, hoặc trong một xóm đều dự, bất luận là hành nghề gì. Họ thảo luận và bình xem mỗi người trong bọn họ thu-hoạch được bao nhiêu, rồi cuối cùng giơ tay “biểu-quyết” con số. Cuộc bình này gọi là “bình ngang”. Mỗi công, thương gia trong phố, hoặc trong xóm đã biết trước là phố mình, hoặc xóm mình sẽ phải đóng bao nhiêu thuế, nên mọi người đều cố tình “tố” người khác, để người khác phải nộp nhiều hơn thì bản-thân mình có hy-vọng nộp ít hơn. Việc “bình ngang” này mang tới hai kết quả :
Thứ nhất là những người cùng phố hoặc cùng xóm thường hay có chuyện xích-mích hoặc thù hằn lẫn nhau, và thường lợi-dụng cuộc “bình thuế” để trả thù. Thí dụ vợ anh A ngoại-tình với anh B, buôn bán cùng phố. Muốn trả thù anh B đã cho mình “mọc sừng” anh A tố là anh B thu-hoạch rất nhiều. Ðể nại chứng, anh A nói thường thấy chị B đi chợ mua gà, vịt. Ðến khi hội-nghị bàn thuế của anh A, thì em anh B muốn trả thù cho anh mình, đứng lên tố là ngày nào cũng thấy anh A ngồi nhậu cà-phê sữa (cà-phê và sữa được coi là xa-xí phẩm ở Bắc-việt) ở tiệm cà-phê gần nhà mình. Rốt cuộc là thu-hoạch của mọI người đều bị “kích” lên, và nhiều khi sở thuế thu được nhiều hơn con số dự trù.
Kết quả thứ hai là những người cùng phố, cùng xóm không biết hàng xóm láng giềng làm ăn ra sao mà chỉ biết đại khái về lề lối sinh-hoạt. Người nào mà mỗi tuần ăn một con gà, hoặc mỗi sáng uống cà-phê sữa không tránh khỏi những người xung quanh coi là “đại-phú”. Rốt cuộc không ai giám ăn gà và uống cà-phê sữa công khai. Nếu chị B muốn mua một con gà thì chị phải nhét gà xuống đáy rổ, đậy rau muống lên trên, còn anh A, nếu thèm cà phê thì đạp xe-đạp tới một nơi thật xa để uống, hoặc pha dấu trong phòng ngủ, không cho hàng xóm láng giềng ngửi thấy mùi. Vì “bình thuế” cả ngang lẫn dọc nên chẳng bao lâu mọi người đều làm ra vẻ xác xơ. Họ mang những quần áo cũ nhất và rách nhất ra mặc, để râu tóc mọc thật dài, hoặc nhờ vợ hớt bằng kéo. Tiệm cà-phê, thợ may và thợ cạo đều lần lượt đóng cửa.
Ðầu tiên vì sợ bình nên mọi người đều “dấu giầu” nhưng cuối cùng, mọi người đều phá sản thực sự. Sau khi phá sản và đóng cửa tiệm cả chủ lẫn người làm công kéo nhau vào vùng Pháp kiểm soát, để lại hậu-phương mặc sức cho Mậu-dịch xây-dựng thương-mại và công-nghệ xã-hội chủ-nghĩa. Lúc bây giờ toàn thể nhân dân đã trở thành bần cố.
Chương 7
“ÐẤU CHÍNH TRỊ”
Giữa lúc bần dân thiên hạ đương thất điên bát đảo về thuế nông-nghiệp và công-thương-nghiệp, hai thứ thuế mà dân chúng gọi là “thuế thất-nghiệp” – thì Việt-cộng sửa soạn bí mật và bất thình-lình phát-động một chiến-dịch đại quy-mô chưa từng thấy trong lịch sử Việt-nam. Bắt đầu vào giữa tối 23 tháng Chạp âm lịch, ngày lễ ông Táo lên chầu trời, vào đầu tháng Hai dương lịch năm 1953, cuộc khủng bố này có thể ví với cuộc tàn sát Saint Barthélémy trong lịch sử Pháp. Vì Việt Cộng sửa soạn rất bí mật, và phát động rất bất thình-lình nên ngoài đảng viên cao cấp không một ai biết trước kể cả viên chức ngạch trung-ương trong chính-quyền kháng-chiến. Vì cuộc khủng-bố này có tính cách hoàn toàn chính-trị, nên sau này được dân chúng mệnh danh là “đấu chính-trị”. Chữ “đấu” bắt nguồn từ danh từ “đấu tranh”, vì Việt Cộng giải thích đấy là một cuộc “đấu-tranh” của dân-chúng.
Hồi ấy vì máy bay Pháp thường oanh tạc ban ngày nên mọi cuộc họp đều triệu tập vào ban tối, và đúng vào buổi tối hôm 23 tháng Chạp âm lịch, 1954, tất cả các xã đều triệu tập nhân dân đến hội trường để bàn về thuế nông-nghiệp và công-thương-nghiệp. Chương-trình nghị-sự chỉ có một câu : TạI sao nhiều người ngoan cố không chịu nộp thuế, hoặc không nộp đủ.
Sự thực thì mọi người đều đã biết tại sao. Chỉ tại sau hai năm liền, giầu cũng như nghèo, không ai còn có thể chạy đâu ra tiền, thóc lúa, để tiếp tục đóng mãi hai thứ thuế “thất nghiệp” ấy được nữa. Nhưng Cộng-sản đặt ra câu hỏi, không phải vì muốn tìm hiểu sự thực, mà cốt để thực hiện một âm-mưu không dính dáng gì đến thuế.
Trước giờ họp, trong hội-trường đã có sẳn thừng, hèo, gậy, và nhiều dụng-cụ tra tấn khác. Những người thiếu thuế không kể ít hay nhiều, đều bị bắt, điệu ra trước hội-nghị và tra khảo không phải để biết tại sao không nộp được thuế, mà chỉ cần biết kẻ nào đã xui dục không nộp thuế. Chủ-tịch cuộc họp không hỏi lơ mơ “Ai xui mày không nộp thuế ?”, mà hỏi một cách rất rõ ràng “Có phải Thằng Ất (hoặc Thằng Giáp) xui mày không nộp thuế, phải không ? Nói mau ! và tức khắc đánh đập, kìm kẹp, tra trấn cho đến lúc nạn nhân chịu không nổi, đuối sức, chỉ khẽ gật đầu. Nếu không gật đầu, nạn nhân có thể bị tra tấn suốt đêm cho đến chết. Hễ nạn-nhân gật đầu, tỏ ý là Giáp hoặc Ất nào đó quả có xui không nộp thuế thì những người này bị bắt túc khắc. Sự thực thì những người này đã được Việt Cộng ghi tên trong sổ đen ; chủ-tịch buổi họp chỉ việc lần lược chọn từng tên một rồi tra tấn những người thiếu thuế bắt phảI khai đúng tên những người trong sổ, để sẵn trước mặt. Một khi người thiếu thuế đã khai đúng như ý muốn của Cộng-sản thì tức khắc được tha về, không cần hỏi đến nữa.
Những người bị khai . nói đúng hơn là bị buộc vào tội xui không nộp thuế . bị tra tấn một mức gắt hơn và phải trả lời hai câu hỏi : Mày ở trong tổ-chức phản-động nào ? và Trong tổ-chức phản-động của mày có thằng… (Bính, Ðinh) không ? Về câu hỏi thứ nhất thì người bị tra có thể bịa ra bất cứ đảng phái nào, khai là đảng hươu đảng vượn gì cũng được. Có người tự nhận là đảng Bảo-Ðại, đảng Việt-gian, và có một nông dân cuống quá, nghĩ không ra đảng, khai ngay “Ðảng Cộng-sản” vì từ bé anh ta chỉ nghe nói lờ mờ có Ðảng Cộng sản không rõ là cách mạng hay phản-động. Về câu hỏi thứ hai thì người bị tra không được phép khai lung tung, phải khai đúng tên mà chủ-tịch hội-nghị đã mớm cho. (Tuy nhiên đây chỉ là quang cảnh trong những ngày đầu, sau nầy sẽ có nhiều sai lạc mà chúng tôi sẽ trình bày ở đoạn sau).
Tất cả những người “phản động” có tên trong sổ đen lần lượt “bị khai”, bị bắt và bị tra tấn. Họ thuộc đủ thành-phần, không cứ giầu nghèo, và sự thực thì cũng không phải “phản động”. Nói cho đúng thì phần đông là những người có thái-độ lừng chừng, vì những người thật sự chống đối với Việt Cộng thì, hồi năm 1953, hoặc đã bị tiêu diệt, hoặc đã bỏ chạy vào vùng Pháp chiếm đóng. Ðối với Cộng-sản thì lừng chừng cũng nặng tội như phản động. Bài thơ sau đây của Xuân Diệu, nhà thơ bồi bút của Cộng-sản chứng tỏ điều đó.
Anh em ơi, quyết chung lưng đấu cật.
Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung tủ thù
Ðịa-hào, đối-lập ra tro
Lưng chừng, phản-động đến giờ tan xương.
Tất nhiên khi thảo mấy vần thơ trên, không phải là “Nàng Thơ” đã gợi ý cho Xuân Diệu, mà chính là Ðảng đã ra lệnh, vì Ðảng quyết tâm đánh tan xương những phần tử phản-động hoặc lừng chừng không chịu theo giặc mà cũng không tích-cực theo Ðảng. Quả thực là nhiều người đã bị tan xương, đúng như lời của nhà thơ Xuân Diệu, vì hài cốt họ không còn nguyên vẹn sau khi bị đánh chết. Nói về lối tra tấn thì thường có mấy phương pháp điển-hình, xã nào cũng áp dụng. Ðại để như sau :
Nạn nhân phải quỳ, hai tay giơ lên đỡ một thùng đá nặng đặt ngay trên đầu.
Nạn nhân bị treo hai chân, hoặc hai tay vào một sợi thừng vắt qua xà nhà. Một lúc lại kéo lên, kéo xuống, vừa đánh vừa hỏi, thỉnh thoảng buông rơi “cái bịch” xuống đất.
Quấn giẻ tẩm dầu vào hai ngón tay cái và đốt.
Vì mấy hình thức tra tấn này được áp-dụng trong toàn thể vùng Việt-minh kiểm soát, nên dư luận ngờ rằng Ðảng đã quy-định như vậy. Có người nói rằng những cực hình này đã áp-dụng trong các cuộc đấu-tố bên Trung Quốc và do các cố-vấn Trung Cộng nhập cảng vào Việt-nam.
Trên đây chỉ là những kiểu tra tấn “phổ thông” khắp mọi xã, nhưng cũng có nhiều xã áp-dụng những kiểu tra tấn “đặc-biệt” do sáng-kiến địa-phương nghĩ ra. Ở một làng nọ, nạn nhân bị bỏ vào rọ dìm xuống nước một vài phút, lôi lên để hỏi, chưa chịu nhận tội, lại dìm nữa cho kỳ nhận mới thôi. Ở một làng khác, cán-bộ mượn một cái “ê-tô” của một hiệu chữa xe-đạp, kẹp ngón tay người bị tra vào giữa hai má ê-tô, và cứ hỏi một câu mà chưa chịu trả lời lại quay một vòng.
Ðiều đáng chú ý là đảng-viên và cán-bộ đảng không trực-tiếp nhúng tay vào các vụ tra tấn này. Họ giao công việc cho “cốt-cán”, vì cốt-cán không phải là người của Ðảng và của Chính-phủ. Như vậy là cốt để sau này. Ðảng có thể ngang-nhiên phủ nhận mọi trách-nhiệm và, hơn nữa, đỗ hết cả tội lỗi vào đầu nhân-dân. Câu chuyện sau đây có giá-trị điển-hình về thái-độ kể trên.
Một cô giáo “cấp 1” ra cho trẻ em trong lớp một bài luận, đề như sau : “Các em hãy tả một ’đấu’ trong xã các em”. Lũ trẻ em cứ thực tình tả nào là bắt người, đánh, trói và tra tấn, và không quên kết luận bằng những câu ca-tụng đường lối sáng suốt đúng đắn của Ðảng và của “Bác Hồ”. Nhưng mấy ngày sau Ðảng đã chính-thức tuyên-bố là Ðảng không dính dáng dến những vụ tra tấn này và đấy chỉ là “Nhân dân tự động đấu-tranh chống phản-động”. Vì Ðảng đã phủ nhận vai trò của mình, nên hôm trả bài, cô giáo phải làm bộ phê-bình học-sinh là tả không đúng sự thực. Cả lớp bị mắng là “nói điêu” rán gân cổ cãi lại cô giáo, nói chúng đã trông thấy tận mắt và một vài em lại kể rành mạch là đã thấy cán-bộ chặt tre làmgậy và mang thừng chão đến hội trường từ buổi chiều, trước khi triệu-tập cuộc họp.
Vụ “đấu” này kéo dài trong nửa tháng và đêm nào, làng nào cũng có người bị đánh chết. Bắt đầu đêm hôm 23 tháng Chạp, nghĩa là một tuần trước Tết, vào giữa lúc thiên hạ đương lo cúng ông bà ông vải và đón mừng Năm Mới. Vì vậy nên mọi cuộc sửa soạn đều bị bỏ dở, và nhà nào nhà nấy im hơi lặng tiếng, tối đến cũng không dám thắp đèn. Có người nhận xét súc vật thấy người sợ cũng sợ lây ; gà không gáy chó không sủa. Trong mấy ngày đầu, mọi việc đều tuần tự như tiến, theo đúng kế hoạch của Ðảng đã vạch sẵn, Những người có tên trong sổ đen đều lần lượt bị “khai” và tra tấn. Nhưng một khi phong-trào đã được “đẩy mạnh”, cán-bộ trở thành say sưa với quyền sinh quyền sát nên coi nhẹ cuốn sổ đen, vì vậy nên hễ khai ai bắt nấy, đưa đến tình trạng bất cứ ai cũng có thể bị bắt và bị tra tấn. Ðảng không kìm hãm nổi và khắp mọi nơi cuộc khủng-bố trở thành “lung tung”. Những giới-hạn mà Ðảng đã quy định trở thành vô giá-trị và khắp nơi khắp chốn chỉ nghe nói đánh-đập, tra-tấn, chết chóc. Sở dĩ phong trào trở nên hỗn loạn là lại hai nguyên nhân sau :
1. Theo lời Ðảng dặn, cán-bộ giao việc đánh đập, tra tấn cho cốt-cán. Nhưng trong mỗi xã chỉ có một số ít cốt-cán, mà nhiều người trong bọn ngần ngại không muốn thẳng tay đánh-đập bà con trong thôn xóm, đôi khi là anh em, chú bác, cô dì. Hơn nữa đánh lắm cũng mỏi tay, nên cốt-cán phải tuyển mộ ngừơi khác giúp bớt phần việc. Nhưng trong xã-hội Việt-nam tìm được những người tình-nguyện làm những việc ác-đức này không phải là chuyện dễ, nên rốt cuộc, những người sẵn sàng tiếp tay cho cốt-cán đều là những lưu-manh vô-lại trong nông-thôn. Vì là lưu-manh nên phần đông có “thành-tích bất hảo”, hoặc đã trốn “dân công”1 hoặc đã ăn trộm lúa kho hoặc có phạm một tội nào tương tự mà chính quyền chưa hỏi đến. Bây giờ “cờ đã đến tay” nên chúng ra sức “phất” rất mạnh, đánh đập bất cứ ai để ra oai vớI nhân dân và để chuộc tội với Ðảng. Bỗng nhiên đương “thằng” trở thành “ông” chúng ra tay đánh đập “phản-động” để không còn ai có thể quy chúng là phản-động được nữa. Ðánh phản-động tàn nhẫn như vậy, tất nhiên là căm thù với phản-động, và không phải là phản động. Hồi mấy “thằng” lưu manh trở thành “ông” có người đặt mấy câu vè như sau :
Trời làm một hội lăng-nhăng
Thằng hóa ra ông, ông hóa ra thằng.
Trời làm một hội lông-nhông
Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.
Tình trạng trở nên hoàn toàn hỗn loạn vì bất cứ nạn-nhân khai ra ai chúng cũng bắt đánh. Chúng chỉ cần đánh để lấy lòng Ðảng và “lấy le” với nhân dân, làm cho mọi người sợ chúng, không giám khai ra chúng. Vì thất học nên chúng chẳng hiểu “tư-bản”, “đế-quốc” là gì, và đối với chúng, mọi người lương thiện thường khinh rẻ chúng đều có thể coi là “phản-động”cả.
2. Nguyên nhân thứ hai chỉ là hậu quả của nguyên nhân thứ nhất. Trong thời kỳ đầu người bị tra không phải tốn công nghĩ ra tên người khác để khai là đồng đảng vì hồi ấy cốt-cán còn lãnh đạo công việc tra trấn nên lúc nào cũng sẵn sàng “mớm” tên cho mà khai. Trái lại đến lúc lưu-manh xông ra đánh đập thì không còn ai lưu ý đến sổ đen và bất cứ ai bị “khai” cũng bị đòn như mọi người. Mọi người đều nhận thấy hai điều : khai càng sớm càng đỡ đòn và khai ra bất cứ ai cũng được. Không ai bảo ai, mọi người đều tự đặt câu hỏi : “Nếu đêm nay mình bị đánh thì nên khai ra ai, cho đỡ bị đòn ?” Có người lý-luận rằng muốn cho Ðảng chóng đình chỉ cuộc “đấu” thì nên lợi dụng tình trạng, khai ngay cán-bộ hoặc bà con thân thích của cán-bộ và đảng-viên. Quả nhiên những đảng-viên bị khai cũng bị bắt và tra-tấn như các “phản-động thường”. Các chi-bộ cộng sản không có thể can-thiệp vì khẩu-hiệu Ðảng đã nêu ra là : Phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh chống phản-động. Ðảng cũng đã ra lệnh cấm không một cá-nhân nào hoặc một cấp-bộ nào được phép can-thiệp. Thế là đảng-viên trở thành nạn~nhân, đúng câu thành-ngữ Việt-Nam “âm binh quật lại phù thủy”.
Trong một cuộc “đấu” người bị tra hoảng quá, mất hết tinh-thần. Khi bị hỏi “trong tổ-chức phản-động của mày có những ai ?” giơ tay chỉ ngay ông chủ tọa phiên họp. Ông chủ tọa bị lôi xuống và bị đánh tức khắc. Sau đó hội nghị tạm ngưng vì không ai nhận chủ-tọa buổi họp.
1 Ði dân công tức là đi làm phu khuân vác, đào sông, đắp đường, không khác đi làm “cỏ vê” ngày trước.
Ðến ngày thứ 15 thì Ðảng nhận thấy tình hình trở nên quá nghiêm trọng và điện từ trung ương về các tỉnh ra lệnh đình chỉ ngay tức khắc. Nhưng điện-văn cũng nói rõ phải giam giữ những người mà “quần-chúng sáng suốt” đã tố cáo là “phản-động”.
Lệnh giam giữ những nạn nhân của cuộc “đấu” chứng tỏ Ðảng đã có dụng tâm từ trước. Ðảng muốn tạm thời gạt bỏ ra ngoài xã-hội những phần-tử mà Ðảng ngờ có thể chống-đối chính sách sau này của Ðảng : chính sách Cải Cách Ruộng Ðất. Quả thực, những người bị khai là phản-động bị giam trong các trại tập-trung mãi đến phong-trào Sửa Sai, năm 1956, mới được tha.
Trong vụ “Ðấu Chính Trị” trung bình mỗi xã có từ ba đến năm người bị đánh chết, hoặc vì uất ức phải tự tử trong số có một bộ-trưởng chính-phủ là ông Ðặng-văn-Hướng. Ông Ðặng-văn-Hướng nghỉ phép về thăm nhà thì gập phải vụ “đấu”. Vì “Bụt nhà không thiêng” nên cán-bộ xã không nhận thấy ông là “bộ-trửởng” chỉ thấy ông là “một tên phản động” nên mang ra “đấu”. Trong khi ấy thì từ ông Hồ cho đến các bộ-trưởng khác không ai đoái-hoài đến số phận của ông. Ông không bị đánh chết nhưng ông anh ruột bị, và sau đó cả hai ông bà thắt cổ tự tử. Việc đáng chú ý là ông Hương là thân-phụ Ðại-tá Ðặng-văn-Việt, nổi tiếng là “Anh Hùng Ðường số 4” vì mấy năm trước Ðại-tá Việt đã chiến-thắng quân-đội Pháp trong trận Cao-Bằng Lạng-Sơn.
Trong khi cuộc “đấu” diễn ra ở khắp thôn xã thì ở các thị-trấn cũng có “đấu” nhưng với hình-thức nhẹ hơn. Lý do là vì những người buôn-bán ở các thị trấn mới thành-lập là người tứ xứ, không quen biết nhau nên không có hận thù. Những thị-trấn này chỉ là những chỗ buôn bán nhỏ, vì những thành-phố lớn đã bị Cộng-sản phá trụi, theo chính sách tiêu thổ kháng chiến chống Pháp. Việt-cộng lấy cớ là phá hủy thành-phố để không cho Pháp chiếm đóng và lập căn cứ nhưng chủ tâm của Việt-cộng là muốn phá-sản giai-cấp “tư-sản thành-thị” mà Cộng-sản coi là khó cai-trị. Những thị-trấn nói trên chỉ là những dẫy nhà lá thường dựng ở mấy ngã-tư đường nhiều người qua lại. Chủ-nhân là những người trước kia sinh-nhai ở thành-phố, nay mất hết cơ nghiệp phải tản cư về thôn quê, nhưng không làm ruộng quen nên phải dựng lên một túp lều nhỏ để buôn bán chút đỉnh, một vài thứ hàng lặt vặt, mong qua ngày đoạn tháng.
Nói chung thì dân thôn quê phải mất một tuần mới vỡ lẽ là càng nhận tội sớm bao nhiêu thì càng đỡ đòn bấy nhiêu. Trái lại, dân thị-thành vì “láu” hơn, nên ngay buổi đầu họ đã tìm ra mánh lới này. Vì vậy nên ở các thị-trấn có nhiều người chưa bị một cái bạt tai đã vội vàng quỳ gối thú tội vanh vách, nhưng họ cũng được may mắn là những “tội” họ buộc lẫn nhau đều là những tội không lấy gì làm “phản động” lắm. Vì thiếu “phản động” nên chi-bộ Ðảng ở các thị-trấn không thể “đào” đâu cho đủ “phản động” để kéo dài cuộc “đấu” cho trọn hai tuần. Kết quả là cuộc lùng bắt “phản động” trở thành cuộc truy-nã những kẻ ưa dùng xa-xí phẩm, hàng ngoại-hóa. Ăn mặc tươm tất, hoặc dùng xáp bôi đầu chẳng hạn cũng bị quy là “trọng tội”. Cán-bộ đón các đầu đường, hễ ngửi đầu thấy mùi xáp thơm là bắt phải gội ngay tại chỗ, bằng nước rửa bát để sẵn gần đấy. Nhiều anh trông thấy quang cảnh như vậy, vội vàng “xung phong” xin gội đầu bằng nước rửa bát ngay để tránh khỏi bị đòn. Nhiều người ưa ăn sang mặc đẹp như mấy bà vợ bác-sĩ (Bác-sĩ Nguyễn-bát-Can . trước kia là Dr Pascal Nguyễn) cũng bị mang ra “đấu” và hưởng mấy bạt tai.
Cuộc đấu ở nông-thôn và ở thành-thị phát triển theo hai hướng trái ngược nhau. Trong khi ở nông-thôn, cuộc khủng-bố cứ mỗi ngày một kịch-liệt hơn cho đến khi tình trạng trở thành hoàn toàn hỗn loạn, thì ở thành-phố chẳng mấy chốc cuộc “đấu-trang chống phản-động” biến thành một chiến-dịch vớ vẩn, “đấu-tranh chống lề lối sinh hoạt tiểu-tư-sản”. Nhận thấy như vậy nên thực tế đã có người nhanh chân bỏ nông-thôn chạy vội ra thành-phố náu ẩn. Cũng vì ở thành-phố thường ít tính chất bạo-động hơn ở nông-thôn, nên dưới chế-độ cộng-sản dân chúng luôn luôn tìm cách “chuồn” ra thành-phố và do đó chúng ta thường thấy chính quyền cộng-sản ở Bắc Việt và ở Trung Cộng chẳng hạn, thỉnh thoảng lại “giải về nguyên quán” những người tản-cư trái phép từ nông-thôn ra thành thị.
Sau cuộc “đấu chính-trị”, ông Hồ có viết một bức thư “Xin lỗi đồng-bào” gửi cho tất cả các xã và mọi người đều phải học-tập. Trong thư, ông nhận chính-phủ và Ðảng đã thiếu sót trong việc lãnh-đạo khiến nhiều nơi quần chúng đã khinh thường luật-pháp, có nhiều hành-động trái với chủ-trương nhân-đạo và khoan-hồng của Chính-phủ và của Ðảng. Cán-bộ kể chuyện cho dân chúng nghe là khi viết bức thư “Xin lỗi đồng-bào” ông Hồ bực quá, chảy nước mắt. Có lẽ câu chuyện không đến nổi hoàn toàn bịa đặt vì mọi người đều biết ông Hồ đóng trò rất tài tình, muốn cười muốn khóc và ngay cả muốn hôn lúc nào cũng được. Hồi viếng thăm Ấn-Ðộ và Indonesia, những nơi mà nam nữ còn đương “thụ thụ bất thân”, ông Hồ cứ tự-nhiên ôm các bà các cô hôn đại. Vì vậy nên năm 1959, báo chí Djakarta tặng ông biệt-hiệu “Vị chủ-tịch thích hôn” (Presiden Pentjium).
Sau khi xin lỗi đồng-bào, ông Hồ ra lệnh cho các ủy ban xã báo-cáo lên cấp trên những vụ quá đáng. Ðồng thời các ủy-ban cũng phải lập danh-sách những người sáng suốt đã nhận thấy những điểm sai trong chiến-dịch và đã cố gắng ngăn cản.
Có nhiều người, phần đông là đảng-viên cấp dưới, quả thực đã xa lánh phong trào, và có một số đã chạy lên huyện lên tỉnh, tìm cách cứu gỡ cho thân nhân. Sau khi lập thành danh-sách đưa lên tỉnh, những người này được tỉnh-ủy mời lên để ban khen, nhưng lên đến nơi họ được tống đi các trại “quản-huấn” để vừa lao-động vừa học-tập lại những nguyên tắc bất-khả sai-lạc của chủ-nghĩa Mác-xít Lê-ninnít. Mãi ba năm sau, nhân dịp chiến-dịch Sửa Sai, tiếp theo chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất họ mới được tha về. Ðây là một thí-dụ điển-hình chứng tỏ chủ-trương của Ðảng là bắt nhốt ngay cả những đảng-viên mặc-dầu trung-thành với Ðảng, nhưng không tán-thành chính-sách khủng-bố của Ðảng.
Một tháng sau khi ông Hồ đã khóc và xin lỗi đồng bào thì những cán-bộ đã phát-động chiến-dịch ở Bắc-Việt lên đường vào Khu V (miền Nam Trung-việt) để phát động một phong-trào in hệt. Ði theo bọn họ vẫn có mấy cố-vấn Trung-quốc quê ở Hồ-nam.
Ảnh-hưởng trực tiếp của cuộc “đấu sơ bộ” này là tất cả các thành-phần trong nhân dân đều sợ oai của Ðảng. Sự thực, trước cuộc “đấu” Ðảng đã mất rất nhiều uy tín. Nhiều nông-dân bị bom đạn của Pháp tiêu hủy nhà cửa đã ngang nhiên oán trách “Cụ Hồ”, và hàng ngàn dân-công gánh gạo tiếp-tế bộ-đội đã làm reo bỏ về, quẳng gạo ra hai bên đường. Hồi Ðảng còn rút lui vào bóng tối sau khi tuyên-bố tự giải tán, dân quân một xã nọ đã vây bắt một chi-bộ cộng-sản đang hội-họp, lấy cớ là hội-họp trái phép.
Sau chiến-dịch khủng-bố, tình-trạng thay đổi hẳn. Không những không ai giám từ-chối không đi dân-công, mà trái lại, hàng ngàn người xung-phong đi ngay. Thuế khóa cũng chỉ thu trong vài giờ là xong ngay.
Nhiều người nhận thấy như vậy cho rằng Ðảng đã áp-dụng chính-sách khủng-bố để thu thuế cho nhanh và bắt dân-công cho dễ. Nhưng thực ra như chúng tôi sẽ trình bày về sau, Cộng-sản phát động chiến-dịch khủng-bố với hai mục-đích khác. Một mục-đích dài-hạn là dọn đường cho chiến-dịch Cải-cảch Ruộng-đất sắp tới (Xin xem Phần 5) và một mục-đích tức thời là thị uy với toàn thể nhân-dân không kể giàu nghèo . và thanh-trừng những phần-tử : mặc-dầu tham gia kháng-chiến chống Pháp, nhưng tình-nghi là không chấp-nhận chế-độ cộng-sản.
Cuộc “đấu chính trị” do Trung-ương Ðảng phát-động, kéo dài trong nửa tháng, gây không biết bao nhiêu tang tóc, nhưng sau khi ông Hồ đã viết thư “xin lỗi đồng-bào” thì tình hình ở nông-thôn lại tương-đối được ổn-định. Những người chạy trốn ra thành-phố lần lượt trở về làng. Cán-bộ làm ngơ không hỏi tới và để yên cho tự-do sinh hoạt trong khoảng vài tháng.
Nhưng “đấu” rồi, Ðảng còn một công-tác khác cần phải làm. Tức là chứng tỏ trước nhân dân là dù sao lời dậy của Bác Mao vẫn đúng. Bác Mao đã nói : “Quần chúng bao giờ cũng sáng suốt” và “Nông dân có thể lãnh-đạo được Cách-mạng vô-sản”. Nhưng cuộc “đấu chính trị” quả đã gây nên nhiều ảnh-hưởng tai hại. Nhiều người trước kia nhiệt-liệt ủng-hộ cộng-sản, nay bỗng nhiên hết tin-tưởng. Họ nhận thấy ông Hồ quá lệ thuộc vào ông Mao đã nhập cảng vào Việt-Nam nhiều hành động dã man mà từ ngàn xưa sử sách Việt Nam chưa từng chép, và hiện nay không một dân-tộc văn-minh nào có thể dung thứ được. Họ cũng nhận-định là Cộngsản, mặc dầu đã nắm trọn quyền trong tay, mà còn dùng mánh lới “phát-động quần chúng” để trừng-trị đối-phương thì thế tất sau này không bao giờ Cộng-sản có thể áp-dụng những biện-pháp công-bằng và nhân-đạo để trị dân. Những người còn giữ được lý-trí . mà thực sự thì nhiều người đã mất vì “học tập
chính trị” quá nhiều . bắt đầu so sánh chế độ cộng-sản với chế-độ thực-dân ngày xưa. Họ công-nhận dưới chế-độ thực-dân, tuy không có công-bằng và tự-do, nhưng ít ra cũng có một hình-thức pháp-lý nào đó. Chính-quyền thuộc-địa cũng giết, nhưng giết bằng máy chém, không giết bằng “phát động quần-chúng”.
Ngay những đảng-viên trung-thành cũng bắt đầu ngờ vực khả năng lãnh-đạo của nông-dân. Họ tự hỏi nếu gây căm-thù, rồi “phóng tay phát-động nông-dân” thì liệu nông-dân sẽ đưa cách-mạng tới đâu? Họ vẫn biết một xã-hội mà người giầu đá đít người nghèo là một địa-ngục, nhưng họ không tin rằng những kẻ kẹp tay thiên-hạ vào “ê-tô” để vặn có thể xây dựng được thiên-đường trên mặt trái đất.
Ðể đánh tan luồng tư-tưởng nguy-hại này, Cộng-sản áp-dụng hai biện-pháp một cho những người có học và một cho dân chúng thiếu học :
1. . Ở mỗi tỉnh đều thành lập toà án quân sự để xử tội những “Việt gian” bị bắt trong vụ “Ðấu chính trị”. Mục-đích của Cộng-sản là để chứng minh cho dân-chúng trông thấy rằng mặc dầu “quần chúng đã tự động”, sự thực quần-chúng vẫn sáng suốt, vì trong số những người họ “tố”, quả thực có nhiều “Việt gian” lợi hại, làm tay sai đắc lực cho Pháp.
2. . Ðảng tổ-chức một chiến-dịch Cải-tạo Tư-tưởng cho toàn thể đảng-viên và cán-bộ để giải thích cho họ hiểu là “phóng tay phát-động quần-chúng”, mặc dầu có nhiều sai lầm, nhưng tựu-trung vẫn là một chính-sách rất “hợp tình, hợp lý”. Vì hai biện-pháp kể trên bao gồm trong “chiến-thuật Mao-Trạch-Ðông”, nên chúng tôi sẽ cố gắng trình-bầy cặn kẽ trong những chương sau.
Chương 8
DANH-SÁCH VIỆT-GIAN
Những người bị bắt và bị đấu tố trong cuộc “Ðấu tranh chính-trị” mà may mắn còn sống sót, thì bị đưa vào trại giam để công-an điều tra thêm. Vài tuần sau công-an tuyên bố là trong số những người này quả có nhiều “Việt-gian” lợi hại, có chân trong một tổ chức bí mật, làm gián-điệp cho Pháp.
Trong năm 1951, nghĩa là hai năm về trước, Pháp có bỏ bom phá tan hệ thống dẫn-thủy nhập điền trong vùng Việt-minh kiểm-soát. Nhớ lại vụ oanh tạc này, Ðảng được dịp tuyên bố là chính những “Việt-gian” mà nhân dân đã “lột mặt” đã xui Pháp ném bom phá hủy các đập nông-giang. Ðảng còn nói rằng bọn họ đã vẽ địa-đồ các đập nước và các cầu cống và chuyển giao cho Pháp. Rõ ràng là một sự vô cùng phi-lý vì không có một người Việt-nam nào không hiểu rằng những cống và đập đó đều do Pháp xây-dựng và toàn bộ bản-đồ Việt-nam và Ðông Dương đều do Pháp vẽ. Nói rằng Pháp quên không biết đập ngăn nước khổng lồ họ xây ngày trước bây giờ nằm vào chỗ nào và phải nhờ “Việt-gian” chỉ điểm mới nhớ ra thì cực kỳ khôi hài. Nhưng đối với cộng sản thì phi-lý không phải là một trở ngại cho tuyên truyền. Họ kinh nghiệm rằng đối với nông-dân chỉ việc nhắc đi nhắc lại một lý-luận thô sơ dễ hiểu thì dù phi-lý đến đâu cuối cùng nông dân cũng nhập tâm cho là thực. Ðặc biệt là nói về thực-dân Pháp và đế-quốc Mỹ thì kể hươu kể vượn thế nào cũng được, vì nhiều nông-dân suốt đời không hề thấy một người Pháp hoặc một người Mỹ. Một trung-đội trưởng Việt-minh sau khi thắng trận Ðiện Biên Phủ về Hà-NộI hỏi dân thủ-đô có phải người Mỹ da đỏ hồng hào không. Ý hẳn anh ta chỉ nghe nói bên Mỹ có một chủng tộc thường gọi là Peaux Rouges. Ðối với trình độ kiến-thức như vậy thì dĩ-nhiên càng lý-luận giản-dị bao nhiêu, dân chúng càng ưa nghe bấy nhiêu.
Mỗi tỉnh đều đệ lên trung ương một danh sách những kẻ “phản động” và sửa soạn xử-án công khai. Trong mỗi danh sách đều có những “thành-phần điển-hình” : một địa-chủ giầu nhất, một vị hòa-thượng, một linh-mục, một vị khoa cử và một cựu quan lại.
Trong khi chờ phiên tòa xử thì các can-phạm phải điệu đi từ trại giam này đến trại giam khác, qua hết làng này sang làng khác, như kiểu một gánh “xiếc” mang thú dữ đi quảng cáo trước khi biểu diễn buổi đầu. Chân họ bị xiềng và tay họ bị trói bằng một chiếc thừng dài, buộc cánh tay người đầu đoàn cho tới cánh tay người cuối cùng. Họ khạng nạng đi giữa ban ngày, dưới mặt-trời tháng năm, tay bị xích nhưng cũng cố nâng xiềng khỏi mặt đất cho dễ đi. Tiếng xiềng chạm nhau kêu “leng keng” rất xa và rất rùng rợn vì là một thứ tiếng mà thiên hạ chưa từng nghe bao giờ.
Phiên tòa đã xếp đặt gần xong và các vị thẩm phán đã được cấp trên chỉ định thì bỗng nhiên có lệnh đình lại. Sau đó có tin đồn là các “cố vấn Trung-quốc” xét thấy danh sách phản động chưa được đầy đủ. Họ nói danh sách còn thiếu một loại đại phản-động mà bên Trung-quốc gọi là “Tư-sản Mại-bản”. Theo lý-thuyết của ông Mao, một lý-thuyết mà các đồ-đệ của ông coi là một cống hiến vĩ-đạI, giai-cấp tư sản ở các nước kém mở mang chia làm hai loại : tư-sản dân-tộc, tức là những người công-nghệ và tư-sản mại-bản tức là những người xuất-nhập cảng. Hai loại tư-sản này có hai thái-độ chính-trị khác nhau, vì cách thức kinh doanh của họ khác nhau.
Tư-sản dân-tộc hay công-nghệ bản-xứ chế-tạo hàng nội-hóa nên phải cạnh-tranh gắt gao với tư-sản ngoạI-quốc. Vì vậy nên họ có tinh-thần yêu nước một phần nào, và sẵn sàng hợp tác với cộng-sản để tranh-đấu dành độc-lập. Cộng-sản để yên cho họ sống từ thời kỳ cải-cách ruộng đất cho đến thời kỳ hợp tác công-nghiệp. Trong khi ấy họ vẫn làm chủ nhà máy của họ, dưới sự kiểm soát nửa kín nửa hở của công-đoàn. Ở Trung-Hoa và ở Bắc-Việt chế-độ này được duy-trì trong hai năm.
Thành phần tư-sản mại-bản thì ngược lại sống nhờ vào tư-sản ngoại qưốc nên không có mảy may tinh thần yêu nước. Quyền-lợi của họ bị ràng buộc vào quyền lợi của tư-sản ngoại-quốc nên họ chỉ là tay sai của đế-quốc. Vì vậy nên họ bị xếp là “Kẻ Thù Số Hai của Nhân Dân” (Ðịa-chủ là kẻ thù số Một). Nhưng muốn quy một người này là tư sản mại-bản, theo đúng nghĩa của ông Mao-Trạch-Ðông thì phảI tìm thấy ở người ấy hai điểm. Một là tư-sản và hai là mại-bản, tức là buôn bán xuất-nhập cảng. Vì vậy nên khi Trung Ương bắt các ủy-ban tỉnh phải lập danh sách tư-sản mại-bản, ủy-ban tỉnh phải kê khai một số người trong địa-phương có thể tạm gọi là “tư-sản” và có buôn bán hàng ngoạI-quốc. Nhưng kiếm được những người đầy đủ hai điều-kiện kể trên quả là một việc rất khó vì hồi ấy chẳng còn ai ở hậu-phương có thể tạm gọi là tư-sản mà xuất-nhập cảng cũng hoàn toàn không có. Từ trước Việt Nam vốn dĩ đã chẳng có bao nhiêu tư-sản, mà nếu có một vài người thì họ đều ở lại Hà-Nội với Pháp. Thật đúng như lời ông Mao, hạng người này quả là tay sai của tư-sản ngoại quốc và luôn luôn cấu kết với thực-dân đế-quốc. Một vài tư-sản vào loại kém, lúc đầu có chạy ra hậu-phương nhưng chỉ ít lâu sau họ cũng trở về thành. Chỉ có một số “phú-thương” chịu khó ở lại hậu-phương, thường khi vì lý do gia-đình hơn là kháng-chiến yêu nước, nhưng tất cả đều bị khánh-kiệt từ mấy năm trước. Vì ở hậu-phương thiếu hàng-hóa, thiếu giao thông và khả-năng tiêu-thụ của nhân-dân quá kém cỏi, nên họ chẳng kiếm chác được bao nhiêu. Lấy cớ là tránh nạn Pháp nhẩy dù, cứ ba hoặc sáu tháng một họ lại phải di chuyển tiệm buôn từ nơi này sang khác, phá nhà cũ làm nhà mới. Nạn lạm phát (một nghìn đồng năm 1955 trị giá bằng một đồng năm 1946) và cuối cùng là Thuế Công-thương-nghiệp đã khiến họ trở thành bàn tay trắng, buôn đi bán lại lấy công làm lãi.
Tuy nhiên việc tìm kiếm tư-sản cũng không khó là vì danh-từ “tư-sản” cũng như danh-từ “địa-chủ” hết sức co rãn. Một người sống “trên mức bình thường” cũng có thể tạm xếp vào loại tư-sản, vì chính-quyền có thể chứng minh trước dân chúng là quả họ có một “tư-sản” nào đó. Trái lại việc lùng kiếm những người mại-bản thì thật quả là khó. Những cố-vấn Trung-quốc thực-sự đã lầm to khi họ hạch sách bắt kiếm cho kỳ được tư-sản mại-bản. Có lẽ họ yên trí rằng ở Việt-nam loại người này cũng đông đảo như ở Trung-hoa Quốc-dân-Ðảng. Sự thực thì ở Thượng-Hải, dưới chế-độ Tưởng, có rất nhiều tư-sản mại-bản, nhưng ở Việt -Nam thì thuở ấy hoàn toàn không có, vì trong suốt thời kỳ Pháp-thuộc, mọi việc xuất-nhập cảng đều thuộc độc-quyền một vài công ty tư-bản Pháp.
Nói rằng dưới chế độ thuộc địa có tư-sản mại-bản Việt-nam đã là hài-hước, mà cho rằng trong vùng kháng chiến có tư-sản mại-bản lại là vô-lý hết chỗ nói. Tuy nhiên, Bác Mao nói thì phải nghe và lệnh trên ban xuống thì phải thi hành, và muốn cho danh-sách có đủ các thành phần như cấp trên đòi hỏi, các ủy-ban tỉnh liền bắt mấy cán-bộ mậu-dịch của Ðảng, lâu nay phụ-trách buôn lậu xe-đạp, thuốc tây, dầu lửa, và một vài thức cần thiết cho kháng chiến từ vùng tề vào. Lý-luận của cộng-sản rất đơn sơ. Nếu không có xuất nhập khẩu thực sự, thì việc buôn lậu qua giới tuyến cũng có thể tạm coi là xuất nhập khẩu.
Kết quả là mấy người trước kia được Ðảng tín-nhiệm giao cho công việc nguy-hiểm là buôn bán với “tề” bỗng nhiên bị quy là “Việt-gian” và đưa vào trại giam. Sau khi danh sách được Trung-ương chấp nhận, một tòa-án quân sự được thành lập trong mỗi Khu và di-chuyển từ tỉnh nọ sang tỉnh kia để xử án “Việt-gian” ở mỗi tỉnh. Chánh án khu Tư là ông Hồ-đắc-Ðiềm, trước kia là tổng-đốc Hà-đông và giáo-sư trường Luật Hà-Nội. Thẩm-phán và công-tố viện đều là đảng-viên Ðảng Lao Ðộng. Không có trạng-sư, chỉ có “biện-hộ viên”. Họ không phải là luật-gia xuất thân, mà chỉ là người thường, một người làm nghề đỡ đẻ, và nhiệm vụ của họ là bênh-vực quyền lợi của nhân dân, không phải quyền lợi của bị can. Họ có xin tòa khoan hồng cho một số “cò mồi” bị bắt để lấy cớ khai ra “đầu xỏ”, nhưng họ yêu cầu tòa thẳng tay trừng-trị “Việt-gian phản-động”. Tòa xử công khai, nghĩa là có hai đoàn đại-biểu đi dự. Một đoàn do mỗi xã cử một người và một đoàn do mỗi xí-nghiệp cử một người. Tất nhiên những người được cử đi dự đều là đảng-viên trung-kiên. Những đại-biểu đi dự được sửa soạn hai tuần lễ trước, học thuộc lòng những khẩu hiệu cần phải hô, và hô vào những lúc nào cho đúng lúc. Việc sửa soạn thì rất rầm rộ, nhưng đến khi tòa xử thì tương đối rất khoan hồng. Chiến lược cộng-sản là tỏ thái-dộ công-bình và khoan hồng trong những vụ án có ảnh hưởng lớn đối với nhân dân.
Ở Thanh-Hóa, chẳng hạn, chỉ có địa-chủ số một là ông Nguyễn-hữu-Ngọc và một vị hòa-thượng là Tuệ Chiếu bị lên án tử hình, còn linh mục Mai-bá-Nhạc cùng hai tư-sản mại-bản chỉ bị phạt 20 và 15 năm khổ sai. Cựu quan-lại là ông Hà-văn-Ngoạn, và cựu khoa-bảng là cụ Cử Lê-trọng-Nhị không hầu tòa vì đã chết từ mấy tháng trước trong trại giam. Trong gần một năm, không thấy những người bị án tử-hình mang ra hành-hình nên nhiều người yên trí là họ được ân giảm, nhưng đột nhiên đêm trước hôm trao đổi tù-binh giữa Pháp và Việt-minh, hai người bị đưa ra bắn. Vụ hành hình này rất đơn giản, không có dân chúng xếp hàng vỗ tay và hô đả đảo như thường lệ. Sáng hôm sau, những “Việt gian” khác được trả lại tự-do.
(Còn tiếp)
Số hạng |
Thu-hoạch trung-bình kg thóc |
Thuế %
|
Số hạng |
Thu-hoạch trung-bình kg thóc |
Thuế % |
Leave a comment