Diễn đàn Paltalk TiengNoi TuDo Cua NguoiDan VietNam

June 11, 2008

Thư Cho Con “TRÍ THỨC LẦM LỠ”!

 

Lễ Phật Ðản tại chùa Diệu Pháp, Nam California  

 

Trong mùa Phật Ðản năm nay, tiếp theo đại lễ Phật Ðản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất [GHPGVNTN] tại Miền Nam California, ngày 11-5-2008, với 200 chư Tăng Ni và 5000 Phật tử tham dự (chỉ riêng 1 chùa) trên tổng số 3 triệu cư dân tỵ nạn cộng sản rải rác khắp100 lãnh địa trên toàn thế giới; như nhiều chùa khác ở hải ngoại, tại San Jose, California, Hoa Kỳ, ngày Chúa Nhựt 25-5-2008 vừa qua [nhằm ngày 21 tháng 4 âm lịch năm Mậu Tý], chùa Bảo Phước đã tổ chức trọng thể lễ Phật Ðản, với sự tham dự của đông đảo Phật tử địa phương và các thành phố lân cận; trong lúc vấn nạn Vesak [đại lễ Tam Hợp Phật Ðản do Liên hiệp quốc bảo trợ tổ chức] tưởng như đã chìm vào quên lãng, sau khi được Ðảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam làm ra vẻ long trọng tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam, ngày 14-5-2008 [trễ 1 ngày mà không cho biết lý do, khiến nhiều khách đến từ các quốc gia xa phải chờ đợi qua ngày, với sự tham dự của vài ba ngàn người trên tổng số hơn 85 triệu dân, có một số nhơn vật và nhơn sĩ được mời không tham dự], lại được một số trí thức lầm lỡ ca ngợi và binh vực sự thành công mà theo bà Tôn Nữ Hoàng Hoa họ được đánh giá là một thứ Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh: “…những chậu thóc trộn mật vừa ngọt vừa bùi, những bó lá trúc quân tử vừa thơm vừa dòn sậm sựt đã cùng những buồn tủi sầu muộn, cùng những ước mơ trôi qua ruột, tống ra ngoài trả lại cho quá khứ. Con thiên lý dần dần quen với chức vị. Nó thấy mình phải phò Chúa đến hơi thở cuối cùng mới xứng danh Thiên lý mã” (Trích Con Ngựa già của Chúa Trịnh).  

 

Trước đó không lâu, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, người bị CSVN tìm đủ mọi cách triệt hạ nhưng không thành công, đã được hàng trăm nhân sĩ, trí thức quốc tế, giáo sư đại học từ Á châu sang Châu Âu, Châu Mỹ, các dân biểu thuộc nhiều Quốc hội tại Ðông Âu, Bắc Âu, Tây Âu, Trung Ðông, Hoa Kỳ, v.v… viết thư đề cử Giải Nobel Hoà bình 2008. Riêng tại Quốc hội Châu Âu đã có 60 Dân biểu ký tên hậu thuẫn với bản Thông cáo báo chí đánh đi từ Quốc hội Châu Âu, ở thủ đô Brussels, Dân biểu Marco Cappato tuyên bố:  

 

Ðề cử Giải Nobel Hoà bình cho Ðại lão Hoà thượng Thích Quảng Ðộ, chúng tôi không chỉ tôn vinh nhân cách xứng đáng và giá trị mà phần lớn cuộc đời Hoà thượng phải chịu vòng lao lý qua bao chế độ, mà chúng tôi còn thừa nhận giá trị chính trị với tính hiệu quả của phương pháp bất bạo động của Hoà thượng như con đường thiện hảo làm thăng tiến dân chủ và nhân quyền”.  

 

 

Hòa thượng Thích Quảng Ðộ  

 

Vesak bị coi như là một thất bại của CSVN [trừ chuyện lếu láo tuyên truyền của bạo quyền và gia nô], như cuộc rước đuốc Olympic Bắc Kinh 2008 là một thất bại của Trung quốc, lại bị đánh giá như một thứ thành công, khiến Ba nghĩ tới sự đánh lừa thành công của một số không nhỏ trí thức Việt Nam, những trí thức lầm lở trong cuộc chiến chống Pháp và cuộc chiến xâm lăng Miền Nam Việt Nam của Cộng sản Bắc Việt, mà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, và người chồng bất hạnh là Giáo sư Huỳnh Văn Nghị, là điển hình trí thức lầm lỡ rõ mặt.  

 

Do đó, thay cho lá thư hằng tuần, Ba cho đăng lại đây bài viết về Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, trong sách “Câu Chuyện Da Cam / Dioxin VN”, của Mai Thanh Truyết, sẽ được ra mắt tại Trung tâm Vivo, San Jose, ngày 8-6-2008 tới đây, như một bài học lầm lỡ dành cho những trí thức đã, đang và còn tiếp tục lầm lỡ.  

 

Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống  

(Thân tặng tất cả những người Việt còn có  

tấm lòng yêu quê hương)  

Mai Thanh Truyết  

 

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (BS DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25-2-2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Ðài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2. Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.  

 

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam  

 

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là Giáo sư Dương Minh Thới và anh là Luật sư Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. Luật sư Tín đã bị ám sát tại Ðà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.  

 

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957(?).Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Ðảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.  

 

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Ðảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu – Mõ Vẹt xuyên qua Ðồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.  

 

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.  

 

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.  

 

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.  

 

Ô.B DQH và Ðảng Cộng sản VN  

 

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau: “Các ‘toi’ muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Ðừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với ‘cách mạng’ mà ‘góp y’ với đảng”. Ngay sau đó, một trong mấy người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Ðại học Ðà Lạt), Nguyễn Ðình Long (Nha Hàng không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.  

 

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/1975, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Ðịnh… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Ðông Nam Á.  

 

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: “Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Ðảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Ðến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Ðảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.  

 

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Ðảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố: “Trong hiện trạng của Ðất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân”. Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.  

 

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì… nhân dân (của Ðảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội: “Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%”.  

 

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề “Flashbacks on Returning to Việt Nam” do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.  

 

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là: “Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói: “Ðây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.  

 

BS DQH và Vụ kiện Da Cam  

 

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai.  

 

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Ðộc Da cam / Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Ðây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:  

 

– Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;  

– Thượng tướng Ðặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QÐND làm Chủ tịch;  

– GS, BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;  

– Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.  

 

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng: “Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp [GG cho in đậm và gạch dưới]. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy [GG cho in nghiêng và đậm] (Ðược biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.  

 

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Ðược biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Ðại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoản. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:  

 

– Hội Nạn nhân Chất Da cam / Dioxin Việt Nam;  

– Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Ðại học Hà Nội;  

– Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);  

– Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và  

– Những người cùng cảnh ngộ.  

 

Ðây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.  

 

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Ðại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Ðại học Columbia, New York.  

 

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.  

 

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé(?)là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?). Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi. Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ. Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức). Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.  

 

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?  

 

Ðể tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli). Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Úc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Úc không bao giờ xảy ra.  

 

Bà còn thêm rằng: “Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt). 

 

Ðến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện. Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.  

 

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH  

 

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.  

 

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.  

 

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà (nhưng không thương), một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Ðối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Ðất và Nước cả.

http://vietland.net/modules/newbb/viewtopic.php?topic_id=19&forum=1&post_id=26#forumpost26

May 29, 2008

Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống

Thân tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương.

Mai Thanh Truyết

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên.

Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất “chuyên chính vô sản” của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô “bưng” qua ngõ Ba Thu – Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô “bưng” năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do “uy tín” chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần “tiến bộ”, Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau:”Các “toi” muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với “cách mạng” mà “góp ý” với đảng”. Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàn..g không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được “đặt để” vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ: “Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả”. Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được “phép” nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố :  ” Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân” Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được “yêu cầu” phải xin lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội :  ” Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”.

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong tương lai

Có lẽ vì “mật ước” Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

– Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;

– Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;

– GS, BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;

– Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:”Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt Nam Cộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp”. Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

– Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;

– Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;

– Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988 ) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);

– Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và

– Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần lễ Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì “người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Uc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam.” Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Uc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng:” Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt).”

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay “cải sửa” chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà (nhưng không thương), một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói “đóng góp” đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm “bí mật quốc gia” theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là “cùng là máu đỏ Việt Nam” nhưng phải là máu đã “cưu mang” một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung – Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miềm Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH

May 21, 2008

Những kẻ bị khai trừ (I)

Nguyễn Văn Lục

Kể từ khi thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam đến nay (1) đã có bao nhiêu cuộc thanh trừng nội bộ, hoặc thủ tiêu các đồng chí của chính họ?

Câu trả lời là không kể xiết được. Bàn tay sắt của đảng cộng sản với bạo lực và lừa bịp đã kéo dài từ hơn nửa thế kỷ nay. Lúc mà người ta nhận diện ra được thế nào là chủ nghĩa cộng sản thì đã quá trễ… Sở dĩ có tình trạng khai trừ là vì chế độc độc đảng, độc tài đến nỗi con người nghĩ ngợi cũng cần phải xin phép. Con người luôn luôn ở trong tình trạng có tội, bị khai trừ. Đó là một thứ tù nhân trong tương lai.

Và mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, mỗi lần thay đổi chính sách lại có thứ tù nhân mới, có kẻ bị khai trừ mới. Có thứ bị khai trừ trong “thời kỳ” theo đệ tứ hay theo đệ tam, khai trừ “thời kỳ” cải cách ruộng đất, khai trừ “thời kỳ” Nhân Văn Giai Phẩm, khai trừ “thời kỳ” chính sách theo Nga hay theo Tàu, khai trừ “thời kỳ” trong “vụ án chống đảng, chống nhà nước ta đi theo chủ nghĩa xét lại và làm tình báo cho nước ngoài”, khai trừ “thời kỳ” Mặt trận Giải phóng miền Nam, khai trừ “thời kỳ” những người cựu kháng chiến Nam bộ.

Và nay có thêm một thứ khai trừ mới: Phe phái tranh ăn tìm cách loại trừ nhau… Như mới đây, những người dính dáng trong vụ PMU nay bị bắt và bị điều tra. Tướng công an Phạn Xuân Quắc bị điều tra. Hai nhà báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt.

Tham Nhũng liên kết với đảng được dịp trả thù đối với những ai đòi công lý.

Thêm nạn nhân, thêm oán hận, thêm tủi nhục, thêm phân hóa, chia rẽ, thêm lãng phi nhân lực. Đã có biết bao gia đình tan nát lầm than trong cải cách ruộng đẩt. Phùng Quán đã diễn tả bản chất đảng cộng sản đối với dân:

Những con người tiêu máu của dân
Như tiêu giấy bạc giả

Chúng tôi, xin lược chọn một vài thời kỳ khai trừ chưa được nói tới nhiều mà thôi.

Đối với người cộng sản, họ chia dân chúng ra ba loại người và có ba cách đối xử. Hoặc dân phải “ngoan”, chữ dùng của Vũ Thư Hiên. Ngoan thì tạm yên thân Bảo biểu tình chống Mỹ, chống Tàu thì chống. Bây giờ bảo không được chống thì không đựợc chống. Nghĩa là bảo gì nghe nấy.

Nhưng nếu trong xã hội chẳng may có nhiều người ngoan thì bướng trở thành một cái tội. Bướng, bất mãn, không “giáo dục” được, tức ngoan cố thì bị khai trừ. Nhưng nếu chống đối nữa thi trở hành phản động sẽ bị thanh trừng, bị tù tội hoặc thủ tiêu, ám sát..

Khai trừ nhóm đệ tứ, còn gọi là Trốt-kít

Vì thế, ngay từ cuối năm 1937, tại Nam phần, đã xảy ra liên tiếp các cuộc thanh trừng nội bộ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế do cộng sản Pháp như Duclos, Gitton giật giây những người cộng sản đệ tam như Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Nguyễn. Gitton đã viết thơ cho Nguyễn Văn Nguyễn, đề ngày 19 tháng 5, 1957 như sau:

“Phải chấm dứt sự hợp tác với bọn Tạ Thu Thâu kể từ nay..Phải gấp rút ly khai”.

Chứng cớ là Daniel Guérin, bạn thân của ông Tạ Thu Thâu hồi ở Pháp đã viết như sau:

Tạ Thu Thâu (1906-1944)
Nguồn: tusachnghiencuu.org


“Ngoài sự bắt bớ của chính phủ, bọn Stalinist quyết đồ sát Tạ Thu Thâu, vu cáo là Phát Xít. Ấy là, chính ở Paris mà bọn Stalinist mưu đồ sát hại Tạ Thu Thâu và các bạn của Thâu. Các bạn nên hiểu ràng, chính từ trong khám đường sâu thảm, Tạ Thu Thâu, người bạn của chúng ta chỉ còn trông cậy có chúng ta, hy vọng có chúng ta.

(trích dẫn Nguyễn Kỳ Nam, Hồi ký 1925-1964, từ trang 23-25, chưa xuất bản).

Ngoài Tạ thu Thâu, lần lượt đến Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Quang An, Phan Văn Chánh, Nguyễn Bình hay những người có cộng tác với Việt Minh trong Mặt trận Quốc gia thống nhất như Huỳnh Phú Sổ, Dương Văn Giáo.

Họ đã lần lượt bị sát hại. Vì đối với cộng sản, đệ tứ là kẻ thù trên cả kẻ thù như thực dân Pháp.

Trong dịp Trần Văn Giàu đến Paris hồi tháng 10, 1989, hơn 100 nhân sĩ, trí thức VN ở Pháp đã chất vấn Trần Văn Giàu về vấn đề thủ tiêu ám sát đệ tứ. Theo bác sĩ Trần Ngươn Phiêu cho biết Trần Văn Giàu rất lúng túng. Việc họp này đã được thu băng và còn được lưu giữ. Trần Văn Giàu cũng hứa “rửa” tiếng cho Tạ Thu Thâu, nếu đảng cộng sản VN không “rửa”. Nhưng từ đó đến nay, chưa bao giờ thấy Trần Văn Giàu làm gì để “rửa” cả. (Trích Trần Ngươn Phiêu, Phan Văn Hùm, thân thế và sự nghiệp, trang 358). Ngoài các nhóm đệ tứ bị sát hại ở miền Nam, ngoài Bắc những trí thức miền Bắc như Trương Tửu, Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng bị tiếng oan là đệ tứ. Nhất là trường hợp Trần Đức Thảo, một trí thức thân với đệ tam.

Nhưng ai đã giết Tạ Thu Thâu?

Vào năm 1989, tại Pháp, hơn 100 nhân vật chính trị và văn hóa đòi phục hồi danh dự cho Tạ Thu Thâu bị giết tại ven biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi vào tháng 9, 1945. Những người giết Tạ Thu Thâu kết tội ông làm Việt gian cho phát xít Nhật. Cuối năm 1939, chính Nguyễn Ái Quốc gửi báo cáo cho quốc tế cộng sản ghi rõ:

Đối với bọn Trốt Kýt, không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.
Ông viết tiếp khi ở bên Tàu: “Bọn Trốt kít là một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát xít Nhật và chủ nghĩa Phát xít Quốc tế” (Trích Thành Tín, Mặt Thật, trang 112-113, Turpin Press 1994).

Theo ông Hoàng Hoa Khôi, thuộc nhóm đệ tứ trong tập hồ sơ: Nhìn lại sáu mươi năm tranh đấu cho Việt Nam, ông viết:

“Sau khi điều tra, chúng tôi biết được ba thủ pham. Họ đều là những người cộng sản. Người thứ nhất là Kiều Đức Thắng, trách nhiệm nghiệp đoàn, người thứ hai là Nguyễn Văn Trấn, đã từng được đi học tập ở Moscow, người thứ ba là Nguyễn Văn Tây, cựu bộ Trưởng chính phủ Trần Văn Giàu”.
(trích Hoàng Hoa Khôi, Hồ sơ đệ tứ, trang 228 ).

Cũng cần nói thêm ông Nguyễn Văn Trấn sau này đã phản tỉnh và viết cuốn: Viết cho mẹ và Quốc Hội. Trong sách, ông Trấn né tránh về vai trò sát thủ của ông trong việc thủ tiêu những người CS đệ tứ. Ông là cánh tay mặt của Trần Văn Giàu, người bị coi là có trách nhiệm trong các vụ ám sát nhóm đệ tứ. Ông mất năm 1998.

Cũng có nhiều tài liệu khác viết về cái chết của Tạ Thu Thâu như cuốn Việt Nam 1920-1945 của ông Ngô Văn hay tài liệu: Người Việt ở Pháp 1940-1954 của ông Đặng Văn Long.

Khai trừ nội bộ ở ngoài Bắc

Sau cuộc chiến 1954-1975, theo ông Bùi Tín, có đến hàng trăm vụ án chính trị gọi là “chống lại lãnh đạo”, “chống đảng”, “xét lại”, “phản động” vẫn không được thanh minh để giải tỏa nỗi oan ức. Những người trực tiếp trách nhiệm là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ. Mà Võ Nguyên Giáp sợ. Mà Hồ chí Minh im lặng. Sau đó, ông Bùi Tín trong bản kiến nghị của một công dân, ông đã đưa ra hằng trăm tên tuổi những người bị tù, bị oan ức, bị xỉ nhục. Gia đình họ bị điêu đứng. Có người đã chết oan ức và tủi nhục. Ông Bùi Tín đã đòi công lý cho các người sau đây: các tướng Đặng Kim Giang, Nguyễn Vinh, Lê Liêm; các đại tá Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, Nguyễn Hiếu, Phan Hoàng; các giáo sư: Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh; các nhà báo: Hoàng Thế Dũng, Nguyễn Kiên Giang, Quang Hân, Mai Luân, Mai Hiển, Định Chân, Trần Thư, Khắc Tiếp, Hồng Văn; các văn nghệ sĩ Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Minh Giang, Quang Dũng, Trần Châu, Trần Đĩnh, Hà Minh Tuân, Việt Phương, Anh Chính, Sỹ Ngọc, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, Chu Ngọc, Trần Tích Linh; vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh; các đại tá Ngọc Bằng, Cao Nham, Đỗ Trường, Nguyễn Trần Thiết bị giữ và vụ án ông Ta Đình Đề.

Trong cuốn Án tích cộng sản Việt Nam, tác giả Trần Gia Phụng đã đưa ra một danh sách trong “Thông Điệp xanh” mà nhiều tên tuổi phù hợp với danh sách của ông Bùi Tín. Xin được đưa ra:

Bùi Công Trừng, Bùi Ngọc Tấn, Dương Bạch Mai, Đào Phan tức Đào Huy Dếnh, Đặng Cần, Đặng Đình Cầu, Đặng Kim Giang, Đinh Chân, Đỗ Đức Kiên, Đỗ Văn Doãn, Hoàng Minh Chính, Hoàng Thế Dũng, Huy Vân, Lê Liêm Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Lê Vinh Quốc, Lưu Động, Mạc Lân, Mai Hiến, Mai Lân, Minh Tranh, Nguyễn Cận, Nguyễn Gia Lộc, Nguyễn Hồng Sỹ, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Minh Cần, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thẩm, NguyễN Văn Vịnh, Phạm Kỳ Vân, Phạm Quang Đức, Phạm Viết, Phan Thế Vấn, Phùng Văn Mỹ, Quảng Hân, Trần Châu, Trần Đĩnh, Trần Minh Việt, Trần Thư, Tuân Nguyễn, Ung Văn Khiêm, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Huy Cương, Vũ Thư Hiên.

Đó là những nạn nhân ở phía Bắc mà ông Bùi Tín có giao tiếp, quen biết và biết rõ.

Trong số những người trên, nhà văn Vũ Thư Hiên cho biết bố ông là Vũ Đình Huỳnh bị bắt vì tội thành phần “xét lại”. Ông bị bắt ngày 18/10/1967 vì “chống đảng”. Theo bà Phạm Thị Tề, chồng bà bị còng tay bằng còng số 8, nhưng còng sắt không vừa, họ đã trói giật cánh khủy ông, một ông già đã về hưu. Hình ảnh đó cho đến chết tôi cũng không thể quên, vì nó tàn bạo và man rợ gấp bội phần so với thời thực dân” (trên Diễn đàn số 44).

Ít lâu sau đến lượt Vũ Thư Hiên theo bố vào tù. Bố đi tù thì theo lý lịch, theo luật tru di tam tộc, không tội trở thành có tội, con phải tù theo là phải rồi. Cũng nhờ đó mà sau này Vũ Thư Hiên viết cuốn Đêm giữa ban ngày.

Một cuốn sách làm nên tên tuổi anh.

Mặt trận giải phóng miền Nam

Dươnng Quỳnh Hoa tự Bảy Hồng
Nguồn: roninfilms.com.au


Phần đông những người của MTGPMN đều là trí thức, chuyên viên. Có tất cả khoảng 30 người vào khu. Chỉ có ba cặp vợ chồng, còn tất cả đi một mình. Có thêm 6 thanh niên chưa quá 30 tuổi. Vào khu rồi bà Dương Quỳnh Hoa mới thành hôn với kỹ sư Huỳnh Văn Nghị. Ngay sau 1975, chừng một tháng, Hà nội đã xóa sổ MTGPMN. Từ đó phần đông những người đã theo Mặt trận bất mãn, chống đối và ly khai. Họ là những người như Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Nguyễn Trọng Văn, (ba người này không vào khu, vẫn ở thành phố) Trương Như Tảng, Dương Quỳnh Hoa. Trước đây, họ bị coi là bù nhìn, sau họ cảm thấy bị phỉnh gạt trắng trợn. Phần lớn âm thầm, nuốt nhục rút lui, hoặc trốn ra ngoại quốc như bộ trưởng Trương Như Tảng.

Dù sao, bỏ quên là một hình thức khai trừ nhẹ nhàng nhất mà họ may phúc được hưởng.

Hoặc xin ra khỏi đảng như vợ chồng bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.

Bà Dương Quỳnh Hoa mất ngày 25/02/2006, tại Sài gòn. Sinh thời, bà theo học ngành thuốc tại Sài gòn và nhất là tại Pháp, gia nhập đảng cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Với tư tưởng xã hội và cấp tiến như thế, bà tham gia MTDTGPMN. Sau này bà đã thú nhận, đó là một ảo tưởng chính trị trong đời.

Ông Huỳnh Văn Nghị, chồng bà đã phản đối quyết định thống nhất ngay lập tức Mặt trận giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân chủ và hòa bình. Họ bị loại trừ. Bà xin ra khỏi đảng, nhưng thời đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với điều kiện bà phải giữ im lặng. Nhưng sư im lặng đó không kéo dài được lâu khi bà phải chứng kiến quá nhiều điều “phản cách mạng” từ khi đảng cộng sản Việt Nam ‘thực thi’ cái lý tưởng mà bà đã hy sinh cả đời sống cho nó. Khi được tờ báo Far Eastern Economic Review (FEER) phỏng vấn vào ngày 17/10/1996: Quel est l’évènement le plus marquant pendant les 50 années passées? Bà trả lời: L’effondement du mur de Berlin qui mit un terme à la “grande illusion” (Tạm dịch. Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua? DQH: Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng” lớn.

Nhất là khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt Nam (The Failure of Communism in Vietnam, Nguyen Phuc Buu Chanh, Online: http://snipurl.com/29phe   [ http://www.freerepublic.com  ], May 19, 2008 ) bà Dương Quỳnh Hoa đã trả lời rằng:

Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn. (“I have been a Communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communism, and it is a failure—mismanagement, corruption, privilege, repression. My ideals are gone.”)

Chủ nghĩa cộng sản là tai họa. Những cán bộ đảng cộng sản không hề hiểu biết về sự cần thiết của việc phát triển một cách hợp lý. Họ bị mê hoặc bởi những khẩu hiệu của Mác Xít đã không còn giá trị nữa, nếu không muốn nói rằng chúng không bao giờ có giá trị. Họ là những kẻ (tàn ác) quá độ. (“Communism has been catastrophic. Party officials have never understood the need for rational development. They’ve been hypnotized by Marxist slogans that have lost validity—if they ever were valid. They are outrageous.”)

Người ta tự hỏi rằng nếu bà Dương Quỳnh Hoa không phải là một khuôn mặt nổi tiếng, một trí thức hàng đầu của MTGPMN thì bà có được bình yên, không bị tù tội sau khi tuyên bố những lời như trên với một ký giả Hoa Kỳ? Nhưng điều này có thể giải thích phần nào vì khi nhà cầm quyền cộng sản nộp đơn kiện chính phủ và một số công ty hoá chất Hoa Kỳ tại toà án New York về những thiệt hại về nhân mạng và nhất là ảnh hưởng tai hại phụ nữ Việt Nam ở những vùng ô nhiễm thường bị xẩy thai hay sinh ra trẻ dị dạng. Một trong ba người đứng tên trong đơn kiện này lại là bà bác sĩ Dương Quỳnh Hoa.
Những dữ kiện về bà Dương Quỳnh Hoa trong đơn kiện do phía cộng sản đưa ra trước toà án New York đọc được như sau:

Người đi kiện DUONG QUYNH HOA
Điều thứ 135. Năm 1964, plaintiff Duong Quynh Hoa là một người Việt Nam và là một y sĩ cư ngụ tại thành phố Saigon thuộc miền Nam Việt Nam
Điều 136. Trong thời gian này, bà thường đi lại tỉnh Biên Hoà và vùng Sông Bé là những nơi bị nhiễm thuốc độc do những bị cáo trên đây sản xuất.
Điều 137. từ 1968-1976, Dr. Hoa là Bộ Trưởng Y tế cuả CPLT MNVN và sinh sống tại tỉnh Tây Ninh.
Điều 138. Trong thời gian ở tây Ninh,bà được chỉ thị nhiều lần phải bao đầu bàng bao Plastic cì quân đội Hoa Kỳ sẽ rải hoá chất độc. Trong thời gian này, bà đã trông thấy một thùng đựng chất độc da cam sản xuất bởi những bị cáo được thả xuống từ máy bay quân đội Hoa Kỳ.
Điều 139. Tháng 5, 1970, Dr. Hoa sinh hạ một bé trai tên là Hùynh Trung Son. Plaintiff Huynh Trung Son sinh ra bị dị tật và bị tàn phế.
Điều 140. Plaintiff Huynh Trung Sơn chết khi được 8 tháng tuổi.
Điều 141. Sau chiến tranh, Dr. Hoa bắt đầu có triệu chứng ngứa ngáy và bị lỡ ngoài da.
Điều 142. Năm 1971, Dr. Hoa có thai và bị sẩy thai vào tháng 7, 1971 sau 8 tuần lễ có thai.
Điều 143. Dr. Hoa có thai lần nữa nhưng lai sầy thai sau sau tuần vào tháng 1 năm 1972.
Điều 144. Sau khi mất đứa con đầu lòng và sầy thai hai lần, Dr. Hoa quyết dđ0nh sẽ không có con nữa.
Điều 145. năm 1985, sau khi bị ngất xỉu và chóng mặt nhiều lần, , Dr. Hoa bị khám phá là bị bệnh tiểu đường..
Điều 146. Năm 1998, Dr. Hoa bị bệnh ung thư vú và phảigiải phẩu cắt bỏ ngực.
Điều 147. Năm 1999, Dr. Hoa thử máu và khám phá ra nồng độ chất độc da cam dioxin trong máu bà cao hơn độ bình thường rất nhiều.
Điều 148. Cả hai cái chết của hai người đi kiện, plaintiff Duong Quynh Hoa con trai của ba là Huynh Trung Son là do chất độc da cam do những bị cáo nêu ra ở trên sản xuất.
(trích từ phán quyết cuả toà UNITED STATES DISTRICT COURTEASTERN DISTRICT OF NEW YORK vụ VN xin kiện vụ chất độc da cam)

Năm 2004, mặc dù chi rất nhiều tiền cho các tổ hợp luật sư danh tiếng cuả Hoa Kỳ toà án ờ New York đã bác đơn xin kiện của chính phủ Việt Nam về vụ chất độc da cam. Từ đó đến nay, tuy phía Việt Nam cho biết sẽ kháng án nhưng vấn đề này không còn được đề cập tới sôi nổi như trước đây. Ghi chép lại dài dòng về những chi tiết của đời sống riêng của bà Dương Quỳnh Hoa để thấy rằng dù không bị cộng sản thanh trừng, bà cũng đã phải trả cái giá quá đắt. Bà là một điển hình cho trí thức miền Nam khi chọn sai lý tưởng để theo đuổi và nhất là khi đó lại là chủ nghiã cộng sản. Ít ra thì khi có phán quyết này của toà án Hoa Kỳ, bà Dương Quỳnh Hoa đã qua đời, khỏi phải thêm một lần thất vọng

Trong Hồi ức Nguyễn Thị Bình, một người còn được trọng dụng, dày đến 700 trang, người đã một thời là đồng chí với nhau ở trong bưng là bà Dương Quỳnh Hoa đã không được bà Bình nhắc đến một lần.

Những người khác như quý ông Trịnh Đình Thảo (1901-1982), vợ là bà Ngô Thị Phú, quê quán Sóc Trăng. Ông Lâm Văn Tết ( 1896-1982) Ông bà Phùng Văn Cung, vợ là Lê Thoại Chi. Giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, vợ là nghệ sĩ Tâm Vấn. Ông bà Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vợ là nữ sĩ Vân Trang, thân sinh ra gs địa chất Trần Kim Thạch. Em gái bà Vân Trang là nghệ sĩ Mộng Trung, vợ Trần Văn Khê. Giáo sư Nguyễn Văn Chì, vợ là là bà Nguyễn Đình Chi, Chánh án Phạm Ngọc Thu, Võ Ngọc Thành, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chức sắc Cao Đài Nguyễn văn Ngỡi, bà Bùi thị Nga (vợ của ông kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát.)

Sau 1975, sau “ngày giải phóng”, họ làm gì? Họ ở đâu ? Họ chẳng làm gì cả Họ tiếp tục ngồi chơi xơi nước với danh hão? Họ tiếp tục ăn bánh vẽ dù chẳng còn muốn ăn. Bà Bùi Thị Nga có thay chồng viết cuốn Huỳnh Phát, cuộc đời và sự nghiệp, dày trên 600 trang cùng không một chữ cho bà Dương Quỳnh Hoa.

Hồi đó quý vị được đảng bố trí ở biên giới Việt Nam-Campuchia, khoảng giữa bót Tà Xúa tới Chợ Giữa, Kà tum. Nhưng vì vấn đề an ninh,quân sự, chỗ ở cũng bị thay đổi nhiều lần để tránh phi cơ Mỹ ném bom.

Nhiều vị được dẫn đến “Trung ương” MTGPMN, phải vất vả lắm.Trước hết, phải vượt qua kinh Đìa Vàng, đến Ba Thu trong vùng Mỏ Vẹt. Nhà ở là mấy chục nóc nhà ni lông. Ai cũng ngủ võng cả. Nghe tiếng máy bay là lăn từ võng xuống hầm ngay đó. Nhà ăn tập thể thì nóc lợp lá trung quân, chung quanh có nhiều hầm đào sẵn để tránh bom. Nhà này vừa dùng làm chỗ ăn uống đồng thời là chỗ hội họp chính tri. Hằng ngày, Huỳnh Tấn Phát, linh hồn của Mặt trận, họp để đọc tin tức, nghe bá cáo và học tập. Nhất là nhanh chóng “để các vị ổn định tư tưởng và đời sống riêng tư.”

Nhiều vị ra đi tưởng chỉ vài tuần là “Giải phóng xong miền Nam”. Nay nhớ nhà, nhớ cơm, nhớ phở, nhớ điện, nhớ nước, nhớ cầu tiêu, nhớ tiện nghi Sài Gòn Nhiều khi không biết làm gì thì gs Nguyễn Văn Kiết mang triết học của Kant, Hegel ra giảng cho các quý vị nghe đỡ buồn. Vấn đề ăn uống chắc không có trở ngại gì. Chỉ sợ kiến rừng. Đồ ăn dư phải để trong một bát nước, nếu không kiến bò vào bát xơi trước. Nhưng vấn đề tắm rửa cho mấy vị phụ nữ thì thật phiền hà. Người như bác sĩ Dương Quỳnh Hoa mà nay phải ra tắm suối cởi truồng thì coi sao được. Bảo vệ phải làm nhà tắm, đi khuân nước về, rồi phải đun sôi cho vị nữ bác sĩ tắm cho đỡ lạnh. Đối vị nữ lưu như bà, thế là cực khổ lắm rồi.
Công việc chính là ngồi chơi xơi nước. Biết mình bị lợi dụng, biết bị làm cảnh, biết bị lừa.

Nhưng, như nhạc TCS, Tiến thoái lưỡng nan, đi… về… lận đận.

Muốn về cũng không có đường về.

Huỳnh Tấn Phát (1913-1989)
Nguồn: wikimedia.org


Quý vị thì nhàn, không có việc gì làm, họp hành đưa ra nghị quyết, tuyên bố rồi biên bản bị vứt vào sọt rác, vì Trung ương đã soạn sẵn. Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch Hội đồng cố vấn chính phủ cũng nhàn. Ngồi chơi xơi nước đến hai lần. Trong khi đó theo Trần Thanh Quốc, thư ký riêng của Huỳnh Tấn Phát – chủ tịch Phát làm chủ tịch chính phủ cách mạng lâm thời cộng Hòa miền Nam VN – với chức vụ đó ông “không có một chút thì giờ để nghỉ ngơi. Chỉ có thể nói những phút giây rảnh rỗi là khi anh lên yên con ngựa sắt để đi họp. Đó là thời gian nghỉ ngơi thanh thản nhất.” Bận thế đấy.

Trước 1975, 4 vị thanh niên là Trần Quang Long, Trần Triêu Luật, Lê Hiếu Đằng, và Trần Thiên Tứ sang công tác ở tuyên huấn R. Trần Quang Long và Trần Triệu Luật đã chết sau ba đợt bom tại đây.

Hầu hết những vị này, sau 30/04/1975 đều cho ngồi chơi xơi nước. Đó là cách đãi lọc kiểu cộng sản. Chỉ riêng những người đã từng chiến đấu dưới hàng ngũ cộng sản như Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình còn được giữ chức vụ ngồi chơi nước như Phó Thủ tướng chính phủ. Ông Phát sau này chỉ lo vụ tiêp tân, đón tiếp khách ngoại quốc hoặc có nhiệm vụ đi ra nước ngoài thay mặt chính phủ.

Đó là số phận dành cho những kẻ chạy cờ. Một cách khai trừ “ êm dịu”

(Còn tiếp)

© DCVOnline


(1) (Xem thêm Hồi ký Une goutte d’eau dans le grand océan của Hoàng Văn Hoan về những năm đầu tiên của đảng cộng sản từ 1920-1930 ở bên Thái Lan và bên Tàu).

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=5059

April 28, 2008

UẤT HẬN CỦA TUYẾN CHỐNG CỘNG MIỀN NAM

Diễn Đàn Chính Trị, 24/04/2008

Hồng Lĩnh

Một hành trình đầy uất ức của chiến tuyến chống cộng Miền Nam


.Đã ba mươi ba năm rồi. Giờ đây giở lại trang sử của chiến tuyến chống cộng Miền Nam. Uất ức trước một tiến trình xem như một định mệnh tàn khốc và nghiệt ngã. TT Diệm, tuớng tiên phong gục ngã vì bàn tay bạn Mỹ. Bao ép buộc tàn bạo và phản bội chưa từng thấy đã phá nát cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của Miền Nam.

 

Hai con người, TT Diệm và TT Eisenhower, bốn bàn tay, một ý chí, đã tạo ra huyền thoại Miền Nam tự do và dân chủ. Tuyến đầu của khối tự do nhất quyết kháng cự với cả khối Đệ III Quốc Tế CS.  

 

 

Khối OTASE (SEATO) ra đời
Vào thời điểm Điện Biên Phủ sắp thất thủ. Mỹ rơi vào thế bí. Đi với Pháp để cứu VN khỏi bành trướng CS không được. Vì Pháp sẽ còn ở lại và CSVN sẽ tiềp tục triển khai chiêu bài chống thực dân cứu nước. Không đi với Pháp. Pháp sẽ bỏ ra đi và Mỹ sẽ lẽ loi một mình trên trận địa.

 

Mỹ một mình tham chiến tại VN xem là điều tối kỵ cho quốc hội Mỹ trước dư luận quần chúng. Vì chiến tranh Triều Tiên vừa chấm dứt. Khá tổn tẩm về nhân mạng và ngân qũy. Hơn nữa TT Eisenhower, vừa lên nắm quyền vào tháng 01/1953, với kinh nghiệm trong cương vị của tồng chi huy quân đội đồng minh đã đổ bộ tại Normandie vào năm 1944 để giải phóng Âu-Châu, không muốn can thiệp một mình tại Việt Nam sau khi Pháp ra đi khỏi Việt Nam.

Nhưng phải chận bành trước CS tại Đông Nam Á. Điện Biên Phủ thất thủ vào ngày 07/05/1954 dẫn tới thỏa ước ngừng bắn Genève được ký vào ngày 21/0771954. Nếu VN rơi vào tay CS. Cả vùng Đống Nam Á sẽ đổ theo. Phải ngăn chận CS (Endiguement) và bảo vệ VN. Thuyết Domino ra đời.

 

Đề phục vụ thuyết nầy. Mỹ xây vòng đai an ninh tại Đông Nam Á bằng thỏa ước OTASE (SEATO, Sud-East Asie Treaty Organisation) vào tháng 09/1954 để gián tiếp bảo Đông Dương. Thỏa ước nầy gồm các thành viên: Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Hồi Quốc, và Thái Lan. Tuy Việt Nam, Lào và Campuchia không phải là hội viên của tổ chức. Nhưng một văn kiện được thêm vào thỏa ước ghi chú: “Ba quốc gia ấy có thể được bảo vệ bởi các thành viên của thỏa ước OTASE. Ký xong. OTASE lăn ra chết vì nhiều lý do.

 

Chiến tuyến chống cộng Miền Nam và TT Diệm

.
Sau hiệp định Genève được ký kết giữa Pháp và CSVN, chính phủ Eisenhower muốn đạt “Mục tiêu Việt Nam”. Xác nhận Miền Nam Việt Nam trên tất cả các địa bàn: Quốc gia, quốc tế, kinh tế, chính trị và quân sự.

 

Để thực hiện mục tiêu nầy, Nhà Trắng, dưới áp lực của Lobby Friends of Việt Nam, đặt tin tuởng vào người hùng Ngô Đình Diệm.


Mỹ đánh giá cao phản thực và chống cộng của TT Diệm. Để khích lệ dân chủ hóa Việt Nam cũng như thuyết phục các nhà yếm thế, Mỹ đã phái tướng J.L. Collins và các cố vấn sang Việt Nam để yểm trợ. Chiến tuyến chống cộng miền Nam thành hình với TT Diệm trong tin tưởng và yềm trợ của TT Eisenhower. Điển hình qua việc dân chúng và chính phủ Eisenhower tiếp đón TT Diệm trên đuớng phồ và tại phi truờng thủ đô Wasington vào năm 1957. Trong buổi thuyết trình tại lưỡng viện Hoa Kỳ. Không biết bao lần tất cả dân biểu và TNS đã đứng giậy vỗ tay hoan hô gần như sập mái nhà. Một hào quang cho vị nguyên thủ dân chủ Việt Nam đầu tiên và làm nức lòng chiến tuyến chống cộng Miền Nam.

 

Ổn định cho gần một triêu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam nuôi sống mầm tự do.Trang sử bất diệt của TT Diệm đã tạo cho VN sẽ còn sáng chói cho ngàn thu sau.

 

Trong chạm trán giữa hai khối của chiến tranh lạnh. Xây dựng lại quốc gia Việt Nam, Mỹ và Việt Nam của TT Diệm đã dự trù các giai đoạn sau đây:

1.- Một liên minh quốc tế đe dọa CS với mục đích làm nản lòng cáclực lượng của chúng trong ý đồ xâm lăng bằng phươn thức cổ điển, liên minh nầy có lực luợng nguyên từ Mỹ yểm trợ.

2.- Yểm trợ kinh tế các quốc gia bị đe dọa.

3.- Gửi các cố vấn Mỹ tới để giúp các đơn vị quân sự của Đông Dương.

 

TT Kennedy không chịu nghe lời khuyên của TT Eisenhowervà thay đổi chiến lược
.
Tại Mỹ TT Kennedy chấp chánh (01/1961) với các đặc trưng như sau: Không chịu nghe theo kinh nghiệm của TT Eisenhower. Một chính phủ do dự và đầy dẫy trái ngược. TT và các viên chức từ Harvard về không hiểu biết cái phức tạp của của cuộc chiến vừa quân sự và chính trị. Thiếu thông tin chính xác và lấy quyết định có tính cách trí thức tinh hoa giảng đường và vô hiệu nghiệm. Chính trị của của chính phủ Kennedy cho VNCH là một chính trị ngắn hạn, không có mục tiêu hẵn hoi. Các quyết định làm trầm trọng thêm vấn đề thay cho giải quyết. Để lại cho TT Johnson một di sản nặng triụ và bắt buộc TT Johnson phải dùng tới giải pháp quân sự.

Phê phán nghiêm khắc nhất mà các quan sát viên dành cho các quyết định của TT Kennedy: Ứng biến tùy khi (xem các công văn trao đổi giữa Washington và Đại Sứ Carbot Lodge! Hôm nay thế nầy. Mai thế nọ của năm 1963!). Từng hồi. Gián đoạn. Tất cả trái ngược của một chính trị có suy nghĩ và cương quyết. Trong thời kỳ của chính phủ Kennedy, thuyết nhị nguyên liên tại (dualisme persiste): “Their War-Our War”. Cuộc chiến của chúng nó-Cuộc chiến của chúng ta.

 

Tại Việt Nam đảng côn đồ và bạo lực CSVN bắt đầu xâm lăng (1959) với hổ trợ vô giới hạn của khối CS quốc tế. Từ tinh thần, truyền thông tuyên truyền phá hoại, và quân viện.
 

Hai sự kiện vừa kể đã đẩy những ngày vinh quang và bình an của chiến tuyến chống cộng miền Nam phải ra đi qúa sớm. TT Eisenhower chủ trương bảo vệ Việt Nam từ Lào. Truớc lúc ra đi, TT Eisenhover đã để lại như di chúc cho TT Kennedy lời khuyên sau đây: “ Lào là vòm trời cho hòa bình tại Việt Nam. Có thể quân lực Mỹ phải tham chiến tại đó đề bảo vệ Miền Nam VN”. Nhưng TT Kennedy không những đã không nghe theo. Lại còn tập trung bảo vệ Việt Nam ngay tại Việt Nam. Từ đó tuyến chống cộng miến Nam liên tiếp lãnh năm nhát dao tàn bạo đầy oan nghiệt của hành pháp Mỹ và giây trói của lập pháp cũng của Mỹ. Cô đơn và lẽ loi trong tủi nhục. Chiến tuyến chống cộng Miền Nam đã trút linh hồn trong biển lệ và máu.
 

Phát dao thứ nhất: Trung lập Lào và xích mích giữa TT Diệm và Harriman trờ thành mối thùcá nhân do chính Harriman tạo ra.
.
Harriman chịu trách nhiệm soạn thảo chiến lươc Đông Nam Thái Bình dượng. Thay vì làm theo lời khuyên của TT Eisenhower, lại tìm thỏa ước trung lập cho Lào. Tại hội nghị quốc tế nhóm họp tại Genève, các nước sau đây: Gia Na Đãi, Mỹ, Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, Pháp, Ấn Độ, Trung Cộng, Ba Lan, VNCH, Campuchia, Thái Lan, Anh quốc, Miến Điện, Nga Xô, đã trân trọng tuyên bố bảo vệ trung lập cho Lào qua thoả ước ký ngày 23/07/1962. Thỏa ước nầy ra đời trong bầu không khí chiến tranh lạnh.

 

TT Diệm thấy nguy cơ. Phản đối và đập bàn.Trong lời qua tiếng lại hơi nặng nề với Harriman. Từ đó, tuy là chuyện quốc sự giữa hai nước Mỹ và VNCH. Nhưng Harriman không cùng quan điềm và. tạo thành mối thù cá nhân đối với TT Diệm. CSVN, tuy có ký, đã và đang tự do dùng đất Lào để chuyển quân và vũ khí vào xâm lăng Miền Nam. Bước đầu của sai lầm chết người của TT Kennedy, sau biến cố của vịnh con heo tại Cuba.
 

Nhát dao thứ hai: Sát hại TT Diệm và cho tan nát Đệ Nhất Công Hòa:
 

Không quan tâm tới sự cương quyết xâm lăng của cộng sản Việt nam . Suốt chiều dài của nhiệm kỳ. TT Kennedy chỉ đối mặt với ba chọn lựa chính:  

*Có nên nhúng tay vào Việt Nam để tránh cộng sản chiến thắng không ?

*Có nên ủy thác quân bộ chiến Mỹ hoàn thành nhiệm vụ ấy không?

*Có nên dành ưu tiên cho giải pháp quân sự chống cộng sản hay cho giải pháp cải thiện chính trị cần thiết hầu được sự ủng hộ của dân chúng miền Nam không? Ngớ ngẫn về tinh thần chống cộng của Nam Việt Nam. Bọn chính trị xà lông đã tạo ra sự nghi ngờ nầy cho chính quyền Kennedy.

 

Trong suốt 34 tháng của nhiệm kỳ. TT Kennedy trả lời bằng tăng con số cố vấn từ 685 người lên tới 16000 người và dẫn Mỹ nhập cuộc vào các mưu đồ đen tối cộng sản đội lốt thầy tu
.
Thích Trí Quang, trí thức phản chiến và đảng phái có hành vi bất chính tại nam Việt Nam.

 

Trong lúc các cố vấn quân sự tại Nhà Trắng nghĩ rắng chỉ cần gửi 205’ 000 quân bộ chiến vào tham chiến để Miền Nam Việt Nam có đà và có kiểu để chiến thắng CSVN. Ngoài ra còn đe dọa oanh tạc để đặt Hà Nội và các thể chế cộng sản khác vào thế triệt địa, cả đến thất bại nữa! Trong khi Bộ trưởng quốc phòng McNamara đang sợ Hà Nội và Bắc Kinh can thiệp công khai vào một cuộc chiến xem như trường kỳ.

 

Nhưng tạm thời TT Kennedy không đồng ý gửi quân bộ chiến với số luợng ấy tới VNCH và đòi TT Diệm phải cải tổ chính phủ và đuổi cố vấn Ngô Đình Nhu đi ra khỏi nước. Cấm nhặt TT Diệm không được “mưu đồ” tự chế các đạn dược cho các tiểu liên và đại liên hầu có ít độc lập về quân viện thật như nắng mưa.  

 

Các lộng hành của ông Đại SứCarbot Lodge và các cố vấn Mỹ, cũng như các tuyên bố vô trách nhiệm của TT Kennedy tại nghị viện và các tính toán gửi quân bộ chiến của các cố vấn quân sự, sau cùng là nhất định đòi cố vấn Nhu phài đi ra khỏi xứ, làm TT Diệm cưong quyết chống đối vì chủ quyền quốc gia. Lợi dụng vụ Phật Giáo, các thành phần từ Harvard về như: Harriman, Hilsman, Balls, Forrestal lậm lờ với Carbot Lodge tìm được một đám tôi mọi tuớng lãnh đảo chánh và hạ sát TT Diệm và ông cố vấn nhu.

 

Từ đó. Chiến tuyến chống cộng Miền Nam mất tuớng tiên phong và lãnh tụ có khả năng đối đầu với HCM. Bộ máy hành chánh của VNCH tan nát. Miền Nam rối loạn.Võ Nguyên Giáp tuyên bối”Miền Nam đã mất từ ngày ấy”.

 Nhát dao thứ ba: TT Johnson bắt Miền Nam tự do ngồi chung với bọn áo ngọp MTGPMN tại hội đàm Paris:
.
Tại Miền Nam TT Diệm mất đi ngày 01/11/1963 và tình hình đâm ra rối loạn. CS lợi dụng đánh phá khắp nơi. QLVNCH chếnh vếnh. Tình thế hết sức nguy ngập. Tại Mỹ TT Kennedy mất ngày 22/11/1963 và TT Johnson lên thay thế với một lộ hỗng chiến lược cho tuyến chống cộng Miền Nam. Quân bộ chiến Mỹ được cấp tốc gửi tới Việt Nam. Nhưng không có chiến lược cho cuộc chiến. TT Johnson phải lo vừa cho chiến tranh tại Việt Nam và vừa lo cho chính trị “Đại Xã Hội” Mỹ. Trận tấn công Mậu Thân 68 làm cho TT Johnson mất tinh thần và ông ra lệnh ngừng ném bom tại Bắc Việt và chuẩn bị cho hội đàm Paris. Ngày 13/05/1968 tại Paris, Mỹ do Harriman cầm đầu, tên gốc Do Thái quốc tịch Mỹ đã chủ trương giết TT Diệm, cầm đầu phái đoàn Mỹ mở các cuộc thương thảo thăm dò với Xuân Thủy cho hội đàm Paris sau nầy. Giết bạn TT Diệm rồi không biết phải làm gì nữa. Nên đi nói chuyện với kẻ thù để tháo chạy.

 

Nhưng ngày 18/01/1969 tại hội đàm Paris. Mỹ đã ép buộc VNCH tới bàn hội nghị và MTGPMN là một trong bốn thành phần tham gia: Mỹ, Hà Nội, VNCH và MTGPMN. Một thất thế mà VNCH phải gánh chịu do ý chí của Mỹ sau khi đã làm tan nát miến Nam qua cú đảo chánh, làm chia rẽ vàlàm mất chính nghiã của cuộc chiến đấu cho tự do. Trong khi đó kẻ xâm lăng là Bắc Việt. Chính Bắc Việt phải đối đầu với VNCH. Chứ không phải MTGPMN.

 

Nhát dao thứ tư: Mỹ bắt VNCH ký hiệp định đầu hàng trá hỉnh tại Paris năm 1973
.
Tại Miền Nam TT Diệm mất đi ngày 01/11/1963 và tình hình đâm ra rối loạn. CS lợi dụng đánh phá khắp nơi. QLVNCH chếnh vếnh. Tình thế hết sức nguy ngập. Tại Mỹ TT Kennedy mất ngày 22/11/1963 và TT Johnson lên thay thế với một lộ hỗng chiến lược cho tuyến chống cộng Miền Nam. Quân bộ chiến Mỹ được cấp tốc gửi tới Việt Nam. Nhưng không có chiến lược cho cuộc chiến. TT Johnson phải lo vừa cho chiến tranh tại Việt Nam và vừa lo cho chính trị “Đại Xã Hội” Mỹ. Trận tấn công Mậu Thân 68 làm cho TT Johnson mất tinh thần và ông ra lệnh ngừng ném bom tại Bắc Việt và chuẩn bị cho hội đàm Paris. Ngày 13/05/1968 tại Paris, Mỹ do Harriman cầm đầu, tên gốc Do Thái quốc tịch Mỹ đã chủ trương giết TT Diệm, cầm đầu phái đoàn Mỹ mở các cuộc thương thảo thăm dò với Xuân Thủy cho hội đàm Paris sau nầy. Giết bạn TT Diệm rồi không biết phải làm gì nữa. Nên đi nói chuyện với kẻ thù để tháo chạy.

 

Nhưng ngày 18/01/1969 tại hội đàm Paris. Mỹ đã ép buộc VNCH tới bàn hội nghị và MTGPMN là một trong bốn thành phần tham gia: Mỹ, Hà Nội, VNCH và MTGPMN. Một thất thế mà VNCH phải gánh chịu do ý chí của Mỹ sau khi đã làm tan nát miến Nam qua cú đảo chánh, làm chia rẽ vàlàm mất chính nghiã của cuộc chiến đấu cho tự do. Trong khi đó kẻ xâm lăng là Bắc Việt. Chính Bắc Việt phải đối đầu với VNCH. Chứ không phải MTGPMN.

 

Nhát dao thứ tư: Mỹ bắt VNCH ký hiệp định đầu hàng trá hỉnh tại Paris năm 1973
.
1.- Xác nhận thành lập tại Miền Nam một cơ thể lâm thời. Gọi là Hội Đồng Hòa Giải và Thuận Thảo chịu trách nhiệm tổ chức tuyển cử tự do để lập chính phủ mới. Ai hòa giải với ai? Không lẽ quân Bắc Việt tới bỏ phiếu với súng AK 47?

2.- Tồ chức một nghị quốc tế.

3.- Các quân ngoại quốc rút khỏi Lào và Campuchia.

4.- Mỹ và Hà Nội có liên lạc mới.

5.- Tái xác nhận quyền lãnh thổ cùa Miền Nam. Nhưng quân Bắc Việt đâu có rút lui về Bắc.

Ông Dean Rusk, ngoại trường tuyên bố: As I saw it: “The accords were in effect a surrender. An agreement that left North Vietnamese troops in South Viet Nam meant the eventual takeover of South Veitnam”.

 

Sau phản bội của hành pháp Mỹ, lập pháp Mỹ tiếp tay trói VNCH để giao cho CSVN:

 

Hành pháp phản bội và bắt VNCH đầu hàng chưa đủ. Tới phiên hành pháp Mỹ nhảy vào trói tay VNCH. Để làm tiêu tan các “mầm mống” chống cự tới cùng của VNCH đối với CSVN. Lỡng viện Mỹ vào cuối tháng 06/1973 biểu quyết một số đạo luật cấm giúp đỡ quân sự cho VNCH. Cấm các chi phí cho các hoạt động quân sự tại Campuchia, Lào, Bắc và Nam Việt Nam. Mở màn cho trò chơi cắt toàn diện quân viện vào năm 1975.

 

Mỹ đã cột tay chân và giao VNCH cho CSVN. Vì thế, Mỹ đã không tìm một giải pháp. Tối thiểu rút quân và cứu dân Miền Nam một cách nào đó. Sự thuờng trong các cuộc chiến. Nếu có vấn đề rút lui. Luơng tâm con người bắt buộc. Nhưng VNCH đã gặp một lương tâm tồi tàn. Lương tâm của tên Kissinger và có thể là của Nixon. Thắng tuyển cử của ông quan trọng hơn cái chết của 17 triệu sinh linh Miền Nam Việt Nam.

 

Nhát dao thứ năm: Mỹ tặng nhát ân huệ cho chiến tuyến chống cộng Miền Nam.
.
Ngày 10/03/1975, 15 sư đoàn CSVN, với dồi dào đại bác và chiến xa Nga, bắt đầu chiến dịch « Ho Chi Minh” chiếm Ban Mê Thuật. TT Ford xin USD 722’ 000’ 000 quân viện cho Mền Nam. Lưỡng Viện Mỹ từ chối. Cắt quân viện vào lúc dầu sôi lửa bỏng. Sau khi đã không hết lời phỉ nhổ quân dân Miền Nam. Chối bỏ các văn kiện ghi các lời hứa của TT Nixon gửi choVNCH.

Mỹ bắt ép TT Thiệu phải ra đi. Chỉ huy Miền Nam rối loạn. Đem một tên tôi mọị Dương Văn Minh, đã ra lệnh tàn sát TT Diệm năm 1963, ra để đầu hàng CSVN và “ra lệnh” cho Mỹ phải ra đi để cho Mỹ bớt mất mặt. Một cuộc tháo chạy nhục nhã. Nhưng luôn ngang tàng tuyển chọn một sốngười để đem đi. Rốt cuộc cũng tan hoang trong rối loạn.

Lời kết:

Tính từ năm 1975 tới nay. Tuy đã 33 năm rồi. Nhưng luôn vẫn là một uất hận và một niềm đau. Uất hận của 17 triệu người đã phải đầu hàng bọn xâm lăng CSVN. Sau khi đã chiến đấu với can truờng để bảo vệ tự do.Sau khi đã phải đối đầu cả khối quốc tế CS họp lại. Đầu hàng không phải vì thiếu ý chí hay qúa giở. Trái lại quân dân Miền Nam đã đổ ra bao máu xuơng với thao lược trên khắp các chiến truờng từ 1959 tới 1975. Nhưng quân dân nầy làm sao có thể sống được. Sau năm nhát dao thấu cáy và giây trói mà người bạn Mỹ đã hèn hạ phủ vào đầu và trói tay chân?

Một TT tuyên khởi đã gục ngã khi cờ tiên phong đang còn trong tay. Một triệu quân phải căm hận bỏ súng và xé chiến bào. Sau khi đã tống táng 245’ 000 xác bạn. Miền Nam tan nát trong lệ nhòa. Miển Bắc mất hy vọng được giải phóng.

Chiến tuyến chống Miền Nam chỉ thua một trận vào năm 75. Cuộc chiến đấu cho tự do còn tiếp tục. Ngọn cờ vàng vẫn còn bay trong gió và đợi ngày trở lại chốn xưa. Chốn mà lá ấy, sau bao năm trấn giữ Miền Nam, đã phải tạm bỏ nước ra đi vào tháng 4/1975 với đoàn con di tản của mẹ Việt Nam.
.

.

http://www.congdongnguoiviet.fr/DienDan/0804UatHanCuaTuyenCCH.htm

April 21, 2008

“Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa”.

Jean Marie MÉRILLON Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam

Bài nầy chỉ là một đoạn ngắn trích từ bản dịch tóm lược của quyển “Sài Gòn et moi”, mà tác giả là ông Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Sài Gòn năm 1975. Quyển sách nầy rất có giá trị về mặt lịch sử, từng được các báo Việt Nam tại Pháp đăng bản tóm lược vào thập niên 80. Chúng tôi xin tạm thời ghép bài nầy vào bản dịch “Việt Nam Cộng Hòa Bị Bức Tử “, phỏng dịch từ quyển “La Mort du Việt Nam” của đại tướng Vanuxem, như một phụ bản đặc biệt. Một vài đoạn cũng có liên quan đến tướng Vanuxem, nhưng quan trọng hơn đây là một đoạn hồi ký rất đặc biệt của một nhân chứng lịch sử trong những tháng đen tối nhất của Việt Nam Cộng Hòa, người đã đóng góp công sức cho một giải pháp với hy vọng cứu vãn được Miền Nam Việt Nam tạm thời khỏi rơi vào tay Bắc Việt, nhưng rất tiếc là không thành công vì nhiều lý do ngoài ý muốn của ông.

(Quyển “Saigon Et Moi” được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d’ Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v… nhưng sau đó hình như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách nầy ra thị trường. Và cho đến giờ nầy không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển “Saigon Et Moi” hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một.

Hy vọng một ngày nào đó nếu có duyên may tìm được quyển sách quý “Sài Gòn et Moi” thì chúng tôi sẽ xin tiếp tục dịch để cống hiến cho quý vị độc giả. Bây giờ thì xin giới thiệu quý vị phụ bản đặc biệt nầy, trích từ tập san ĐA HIỆU).

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA

NGƯỜI ĐI KHÔNG MUỐN LƯU LẠI BẰNG CHỨNG

Đã đến lúc Đại Sứ Martin phải nói thật với tôi: Nước Mỹ cần phải làm gì vào những ngày sắp tới khi Phan Rang thất thủ? Và Mỹ cần xác minh thái độ đối với Dương văn Minh mới hôm qua vừa đòi Nguyễn văn Thiệu từ chức .

Ông Martin đã lưỡng lự rất nhiều rồi mới nói cho nước Pháp hay rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Miền Nam . Còn nước Pháp thì muốn cố giữ Miền Nam bằng một chánh phủ trung lập giả định, biết rằng đó chưa hẳn là một liều thuốc hồi sinh cho toàn thể chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa một cách công hiệu, nhưng chẳng còn phương thức cấp cứu nào phù hợp với tình thế lúc đó.

TỐI 18/4/75 :

Qua điện thoại, lần thứ nhất Ông Martin mới nói ra ý định của Hoa Kỳ. Đối với chính trường nước Mỹ thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt sau Hiệp Định Paris năm1973. Vấn đề còn lại là giải thể Hoa Kỳ tại Đông Dương.

Ông Martin muốn nhờ tôi làm trung gian chuyển đạt ý muốn của Mỹ cho phía Việt Cộng. Tôi bèn trả lời:

– “Điều mà ông yêu cầu, tôi sẽ thõa mãn cho ông 5 tiếng nữa nếu không có gì trở ngại trong việc liên lạc. Tuy nhiên tôi phải phúc trình lên chánh phủ của tôi, vậy ông Đại Sứ gởi cho tôi một công hàm ủy thác làm việc nầy.”

– “Không thể được” người ta không muốn lưu lại bằng chứng.

– “Như thế từ giờ phút nầy nước Pháp sẽ đãm nhận vai trò hòa bình cho Việt Nam theo chủ thuyết của Pháp.”

– “Chúng tôi cám ơn nước Pháp. Với tư cách cá nhơn tôi hoàn toàn chống lại chủ trương của Hoa Kỳ dành trọn quyền thắng trận cho Việt Cộng.”

Sau đó chúng tôi chuyển sang phần tâm sự gia đình, hỏi thăm sức khỏe bà Đại Sứ v.v… Đại Sứ Martin cho biết nước Mỹ quá chán ngấy những vụ đảo chánh trước kia nên để cho ông Thiệu từ chức rồi ra đi hơn là đão chánh. Vai trò của Nguyễn cao Kỳ không còn cần thiết sau khi Hoa Kỳ đã tặng phần thắng cho Việt Cộng.

Ngày 30/4, trước 3 tiếng đồng hồ hạ cờ Hoa Kỳ sau 20 năm bay trên vòm trời Việt Nam, Đại Sứ Martin gọi điên thoại vấn an, chúc tôi ở lại xứ sở nầy tiếp tục sứ mạng hòa bình, đồng thời khuyến khích tôi “còn nước còn tát.”

Công việc đầu tiên của tôi là liên lạc với Phan Hiền trong trại Davis (Tân sơn Nhất) cho biết chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của Huỳnh tấn Phát muốn ấn định rõ thời hạn Mỹ rút quân khỏi Việt Nam . Phan Hiền bèn hỏi lại tôi là nên ấn định vào ngày nào?

Sự giàn xếp người Mỹ ra đi cũng làm phiền phức tôi không ít. Ông trưởng phòng CIA xúi ông Tổng Giám Đốc Liên Đoàn Lao Công Việt Nam kiếm khoảng 20.000 người mặc quần áo nông dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Mỹ đòi Mỹ phải ở lại giúp Việt Nam. Ông Trần quốc Bửu hứa sẽ làm được, nhưng rồi chẳng thấy biểu tình chi cả. CIA chưa muốn đi vội, có vẻ muốn ở lại để tổ chức phá rối cộng sản như họ đã từng làm ở ngoài Bắc sau Hiệp định Genève 1954.

Trưởng phòng thương mại Mỹ xin gia hạn đến tháng 6 để giúp các hảng thầu,ngân hàng, các nhà kinh doanh di tản các dụng cụ xí nghiệp, cơ xưởng máy móc về Mỹ. Nhưng rồi Đại Sứ Martin nhận được lệnh của Tòa Bạch Ốc là người Mỹ và tất cả những gì liên hệ đến Mỹ phải rời khỏi Việt Nam chậm lắm là cuối tháng 4/75.

Đại tướng Pháp Vanuxem chạy chỗ nầy chỗ kia với thiện chí cố vấn cho ông Thiệu phản công, nhưng vô ích. Tôi được thông báo Mỹ đã sắp xếp ngày đi cho ông Thiệu đâu vào đó cả rồi. Tướng Vanuxem, người từng chỉ huy ông Thiệu, than thở với tôi: “Thiệu “lủy” không nghe “moa”, đánh giặc theo kiểu Mỹ sẽ thua không còn một mảnh đất để thương thuyết với Việt Cộng.”

Ngày 18 tháng 4 chúng tôi xác nhận ngày di tản của Hoa Kỳ với Phan Hiền.

Trước khi lập chánh phủ giả định, tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ Tướng Chu ân Lai điện cho Bộ Ngoại Giao Pháp là sẵn sàng hợp tác với Pháp để xây dựng một chánh thể trung lập tại Miền Nam nếu có thành phần MTGPMNVN tham dự.

Tại Hànội, cuộc vận động với Đại Sứ Nga được xem là mấu chốt của vấn đề. Nhưng Đại Sứ Nga, ông Malichev từ chối, nói rằng: “Chủ quyền xây dựng chính thể Việt Nam do đảng cộng sản Bắc Việt quyết định. Ngoài tình hữu nghị cũng như các sự giúp đở Việt Nam, Nga chẳng có quyền hạn gì cả.”

Lời tuyên bố đó giống như một kẻ ăn trộm nho bị bắt quả tang rành rành mà vẫn cứ chối bai bải là mình chỉ đi dạo mát trong vườn nho mà thôi. Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có 5 vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ Chỉ Huy chiến dịch Hồ chí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn tiến Dũng hay sao ?

Toàn thể các nước Đông Nam Á lo ngại một nước Việt Nam độc lập dù dưới một chánh thể nào trong tương lai. Đối với họ, Việt Nam mãi mãi có chiến tranh bao giờ cũng có lợi hơn một Việt Nam hòa bình thống nhất. Theo quan điểm đó, khối Đông Nam Á tán thành Việt Nam được đình chiến trong trung lập hơn là thống nhất trong độc lập. Quan niệm nầy lan rộng cả Á Châu, đặc biệt là Nhật Bản, nước Nhật sẽ hết mình đóng góp cho Đông Dương trung lập. Duy có Nam Dương cực lực phản đối. Nam Dương chưa nguôi mối thù Trung Cộng đạo diễn cuộc đão chánh hụt năm 1965, nên bác bỏ giải pháp đình chiến tại Việt Nam có Trung Cộng tham dự.

(Mãi đến năm 1978, tướng Suharto có gởi cho tôi một bức thơ tỏ ý hối tiếc là lúc đó chánh phủ ông đã có nhận xét sai lầm về những ý kiến của chúng tôi).

Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga, thành thử những điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTGPMN tiến vô Sài Gòn.

Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ, cho Việt Nam Cộng Hòa tạm dung thân.

Lời giao ước chánh trị khác hẳn với lời giao ước ngoại giao. Bắc Kinh chỉ giao ước bằng miệng là sẽ tìm cách cản trở Bắc Việt chậm nuốt Miền Nam , biện pháp quân sự coi như yếu tố cần phải có. (Rất tiếc chờ mãi đến năm 1978 Trung Cộng mới dùng biện pháp nầy để dằn mặt Việt Nam).

Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chánh phủ liên hiệp gồm 3 thành phần: Quốc gia, Đối lập, và MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương như Tảng, Nguyễn thị Bình, Đinh bá Thi, thiếu tướng Lê quang Ba, trung tướng Trần văn Trà, ngỏ hầu làm lực lượng nồng cốt thân Tàu trong chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam. Điều kiện họ đưa ra thoạt nhìn thì không thấy có gì trở ngại, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Vì những người nầy không có thực lực hay quyền hành gì cả. Toàn thể quyền hòa hay chiến đều do Lê Duẫn nắm cả. Trên Lê Duẫn một bực là Mạc tư Khoa. “Dường như đã từ lâu phe quốc gia lẫn phe cộng sản Việt Nam đều đã không có quyết định gì về số phận đất nước của họ”

Móc nối với Trung Cộng thỏa thuận đâu vào đó cả rồi, sáng ngày 22/4 tôi mời phái đoàn Dương văn Minh vào tòa Đại Sứ tiếp xúc với chúng tôi. Phái đoàn nầy có nhiều nhân vật đang tập sự làm chánh trị, những kẻ chuyên sống nhờ xác chết của đồng bào họ: Huỳnh tấn Mẫm, Hoàng phủ Ngọc Tường, Ngô bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên, Lý quý Chung, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Cứ v.v… Tôi thấy ông Dương văn Minh đã liên lạc quá vội với một thành phần vô ích. Những khuôn mặt nầy Bắc Việt chưa biết họ, còn hao công giúp Bắc Việt thì chỉ có việc chưởi tầm bậy chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi đi ngay vào vấn đề hỏi chung trước mặt mọi người là: “Chúng tôi hết sức ủng hộ người Việt Nam thành lập một chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Vậy trong những ngày sấp tới có những cuộc thương thuyết xảy ra, quí vị có đồng ý nhận quí vị là đại biểu các khuynh hướng chánh trị ở Miền Nam không ? Chiến tranh đang đến hồi dứt khoát phải có kẻ thua người thắng. Hảy cho chúng tôi biết, chánh phủ quí vị tới đây sẽ thua hay Việt Nam Cộng Hòa thua, hoặc MTGPMN thua ? ”

Huỳng tấn Mẫm cướp lời Dương văn Minh nói trước:

– “Thưa ông Đại Sứ Pháp, cuộc chiến nầy Mỹ đã thua, Tất cả người Việt Nam chúng tôi thắng trận”

Căn cứ theo lời của Huỳnh tấn Mẫm, tôi đoán ngay hắn là một thứ bung xung trước thời cuộc, háo danh, sẵn sàng làm tôi mọi cho bất cứ chế độ nào chịu cấp phát tước quyền cho hắn. Nếu biết khôn và khách quan nhận định thì hắn phải nói như vầy: “Bọn phản chiến Mỹ thua trận, và tất cả người Việt Nam thắng trận trong một nền hòa bình rơi nước mắt.”

Bà ni sư Huỳnh Liên nói nhiều lắm. Bà kể lể “tín đồ Phật Giáo bị kềm kẹp từ 20 năm qua, nếu cộng sản thắng thì đó là lời cầu nguyện của hàng triệu phật tử Việt Nam ”

Luật sư kiêm chánh trị gia Vũ văn Mẫu có vẻ già dặn hơn. Ông đặt tiếng “nếu” ở mỗi mệnh đề để thảo luận. “Nếu” chính phủ tương lai mà trong đó có ông làm thủ tướng thì viễn ảnh hòa bình sẽ nằm trong tầm tay dân tộc Việt Nam v.v..” Ông cũng ngỏ lời cam ơn tôi dàn xếp thời cuộc để lập ván bài trung lập tại Việt Nam .

Đây là buổi thăm dò quan niệm, nhưng những con cờ quốc tế đã gởi cho tôi từ trước không có Huỳnh tấn Mẫm, Ngô bá Thành, Huỳnh Liên, Vũ văn Mẫu và Lý quý Chung. Tôi lễ phép mời họ ra về, ngoại trừ đại tướng Dương văn Minh để thu xếp nhiều công việc khác.

Tiễn ra tận thềm sứ quán, tôi có nói mấy lời để họ khỏi thất vọng sau nầy :

– “Thưa quí vị, thiện chí thành lập tân chánh phủ, điều đó không ai chối cãi công lao của quí vị. Tuy nhiên thẩm quyền tối hậu giờ phút nầy nằm trong tay Hànội. Nước Pháp chỉ làm một việc có tính cách trung gian hơn là chủ động’

Mọi người trợn ngược tròng mắt nhìn tôi hết sức ngạc nhiên. Ông Vũ văn Mẫu nói nhỏ với tôi một câu bằng tiếng Latinh; “Tôi muốn đi Pháp nếu tân chánh phủ không đuợc Hànội nhìn nhận.”

Khi trở vào, Đại tướng Dương văn Minh ngồi đó chờ tôi, nét mặt sung mãn, tự hào là đã nắm vững thời cuộc. Vừa nghe chuông điện thoại reo, tùy viên giao tế của chúng tôi giới thiệu người bên kia là Võ đông Giang. Đường dây điên thoại viễn liên nầy kêu qua tòa Đại Sứ Pháp ở Tân gia Ba rồi cũng dùng đường dây nầy chuyển về Bộ Ngoại Giao Hànội. Tại Hànội họ sẽ móc đường dây tiếp vận vô Nam để tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, vì ông nầy muốn gập tôi có chuyện gấp. Tôi đồng ý nhưng phải chờ hai tiếng đồng hồ nữa mới bắt xong đường dây như thế.

KẾ HOẠCH THỨ NHẤT

Thành phần chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc :

* Đồng chủ tịch là hai ông Dương văn Minh và Trần văn Trà.

* Ba phó chủ tịch là:

** Vũ văn Mẫu,
** Trịnh đình Thảo và
** Cao văn Bổng.

* Tổng trưởng quốc phòng Phạm văn Phú.
* Tổng trưởng ngoại giao Nguyễn thị Bình.
* Tổng trưởng tư pháp Trương như Tảng.
* Tổng trưởng nội vụ Vũ quốc Thúc.
* Tổng trưởng kinh tế Nguyễn văn Hảo.
* Tổng trưởng thương mại Lê quang Uyễn.
* Tổng trưởng tài chánh Trần ngọc Liễng.

Xen kẻ nhau nếu tổng trưởng quốc gia thì Đổng lý văn phòng là người của MTGPMN, và ngược lại.

Hội đồng cố vấn chánh phủ có:

* Nguyễn hữu Thọ,
* Huỳnh tấn Phát,
* Thích trí Quang,
* Lương trọng Tường,
* Hồ tấn Khoa,
* Linh mục Chân Tín,
* Cựu thủ tướng Trần văn Hữu.

Hai mươi bốn giờ sau khi công bố thành phần chánh phủ, nước Pháp sẽ vận động các nước Âu Châu, Á Châu và các nước phi liên kết công nhận tân chánh phủ hòa giải Việt Nam, làm chậm lại bước tiến xe thiết giáp Liên Xô mưu toan đè bẹp Sài Gòn.

KẾ HOẠCH THỨ HAI

– “Thưa Đại tướng, ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nầy còn bao nhiêu người?

Hoa Kỳ để lại vũ khí nếu dùng được ở mức độ phòng thủ thì đuợc bao lâu ?

Đại tướng Dương văn Minh trả lời là ông chưa nắm vững quân số vì hơn chín năm ông không có dịp biết các bí mật quốc phòng.

– “Thưa Đại tướng, đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho đại tướng biết sau. Theo chúng tôi, quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến thuật từ quy ước sang du kích chiến. Ngay từ bây giờ Đại tướng còn 2 Quân đoàn. Phải dùng hai Quân đoàn nầy mặc cả cho thế đứng của phía quốc gia. Tôi tung liền giải pháp trung lập đồng thời tạo áp lực ngoại giao ngừng bắn 7 tiếng đồng hồ. Trong khi đó Đại tướng kịp thời chỉnh đốn quân đội và chọn các tướng lãnh có khả năng trường kỳ phản công. Tôi tin tuởng Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thua và đích thực Bắc Việt đang lúng túng chưa biết họ sẽ chiến thắng bằng cách nào đây.

KẾ HOẠCH THỨ BA

Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Đại Tướng tuyên bố sẳn sàng bang giao với Trung Quốc và các nước theo chủ nghĩa xã hội, dĩ nhiên trong đó có cả Liên Xô.

Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội nầy để cử Đại Sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hànội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế hoạch nầy đánh phủ đầu Hànội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền (một lực lượng mà từ trước đến nay Hànội vẫn ra rã trước dư luận là dân Miền Nam đứng lên chống Mỹ, chớ Hànội không có dính dáng gì hết).

Đi từng bước, lần lượt tân chánh phủ sẽ lật lại từng trang giấy ký ngưng bắn trong Hiệp Định Paris, giao cho Trung Quốc cưởng ép Hànội vào bàn hội nghị nói chuyện ngưng bắn tức khắc.

Quả thật Trung Quốc muốn cứu sống MTGPMN để xây dựng ảnh hưởng của mình tại Đông Dương. Phe quốc gia cũng muốn cứu cấp Sài Gòn đừng lọt vào tay cộng sản . Như vậy hai quan niệm cùng có một mục đích, còn có thể dàn xếp được là tốt hơn cả, vì đừng để cho bên nào thắng.

Tôi cũng thông báo cho ông Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quỷ đạo của Bắc Việt. Họ chạy theo HàNội là muốn tiến thân sự nghiệp chánh trị bằng con đường hợp tác với cộng sản, nếu giúp họ nắm được chánh quyền Miền Nam thì phương tiện dùng cộng sản Bắc Việt đã quá lỗi thời.

Bà Bình từ đầu đến cuối đã hợp tác chặt chẻ với chúng tôi. Thêm một bằng chứng: 17 ngày sau khi Sài Gòn mất, bà Bình còn tuyên bố trước Liên Hiệp Quốc dụng ý tống khứ đạo quân Bắc Việt về bên kia Bến Hải: “Miền Nam Việt Nam sẽ sinh hoạt trong điều kiện trung lập 5 năm trước khi thống nhất hai miền Nam Bắc.”.

Các nhà phân tích thời cuộc nói chỉ cần 5 tháng Miền Nam sống dưới chánh phủ trung lập thay vì có diễm phúc 5 năm, có lẽ hòa bình Việt Nam sẽ ở trong hoàn cảnh thơ mộng tươi đẹp rồi. Bà Bình bị thất sủng sau lời tuyên bố đó.

Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ Việt Nam Cộng Hòa giao cho tân chánh phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoảng độ 290 triệu mỹ kim cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo v.v…tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây.

Bấy nhiêu đó cũng đủ nuôi dưỡng tạm thời chánh phủ Dương văn Minh Trần văn Trà, để rồi người quốc gia tranh thủ với cộng sản duy trì một Miền Nam không nhuộm đỏ màu cờ.

Đại tướng Dương văn Minh không nói chi nhiều, ông lắng nghe tôi trình bày cặn kẻ từng kế hoạch, và nói ông sẳn sàng thực hiện theo quan điểm của chúng tôi. Ông chỉ nêu một câu hỏi duy nhất:

– “Dưới hình thức nào tôi thay thế cụ Trần văn Hương để thành lập nội các để thương thuyết với phía bên kia?”

– “Thưa Đại tướng, cụ Trần văn Hương hôm qua vừa thảo luận với chúng tôi là sẽ trao quyền chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa lại cho Đại tướng, nếu Đại tướng có một kế hoạch không để mất Sài Gòn .”

Sự thực từ lúc ông Thiệu tuyên bố từ chức, ông Minh đã nhiều lần thúc hối chúng tôi tiến dẫn ông nắm chánh quyền ngay lúc ấy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu nầy. Chúng tôi chưa nhận lời yêu cầu đó vì chưa tiếp xúc được với thành phần MTGPMN. Hơn nữa ông Minh ra lãnh đạo guồng máy quốc gia không mang điều mà thế giới mong đợi sau khi Hoa Kỳ rút đi. Khi chúng tôi giới thiệu tướng Minh sẽ là nhân vật cho ván bài trung lập của Pháp tại Việt Nam thì cụ Trần văn Hương sửng sốt và tỏ vẻ phiền trách:

“Nước Pháp luôn luôn bẻ nho trái mùa! Tưởng chọn ai chớ chọn Dương văn Minh, nó là học trò tôi, tôi biết nó quá mà. Nó không phải là hạng người dùng trong lúc dầu sôi lửa bỏng… Tôi sẽ trao quyền lại cho nó nhưng nó phải hứa là đừng để Sài Gòn thua cộng sản .”

Có sự hiện diện của ông Trần chánh Thành là người rất am tường thực chất cộng sản, chúng tôi giải thích với cụ là Bắc Việt rất sợ MTGPMN đoạt phần chiến thắng, công khai ra mặt nắm chánh quyền. Chúng ta nên nắm ngay nhược điểm của họ mà xoay chuyển tình thế. Nếu để một nhân vật diều hâu lãnh đạo, Bắc Việt sẽ viện cớ Việt Nam Cộng Hòa không muốn hòa bình rồi thúc quân đánh mạnh trong lúc quân đội chưa kịp vãn hồi tư thế phản công. Tạm thời dùng công thức hòa hoãn thôi.

Cụ Trần văn Hương thông cảm kèm theo lời thở dài tỏ ra mất tin tưởng. Kế hoạch của chúng tôi vô tình đã đè bẹp tin thần chống cộng sắt đá của cụ. Theo cụ thì giải pháp hữu hiệu là bỏ ngỏ Sài Gòn, tổng động viên những vùng đất còn lại để tiếp tục đánh cộng sản. Chọn giải pháp nầy sẽ đổ máu thêm, nhưng chiến tranh nào mà không đổ máu, ít nhất Việt Nam Cộng Hòa không thua một cách mất mặt.

Mười năm sau tôi thấy kế hoạch của cụ Trần văn Hương đúng. Nếu lúc bấy giờ các nhà lãnh đạo quân sự Miền Nam đừng bỏ chạy quá sớm, yểm trợ cụ, thì có thể gở gạc được thể diện người Quốc gia Miền Nam. Tôi kính mến cụ già Trần văn Hương, Người Việt Nam nhận xét cụ bất tài, già nua lẩm cẫm, song chúng tôi thấy cụ là một người Việt Nam trung tín, sống chết cho lý tưởng, can đãm trước mọi tình huống. Năm 1976, nghe cụ bị bệnh nặng, thiếu thốn phương tiện chữa trị, chúng tôi yêu cầu Tổng lảnh sự Pháp ở Sài Gòn vận động với nhà cầm quyền HàNội cho cụ sang Pháp chữa bệnh. HàNội còn cần Pháp làm giao điểm tuyên truyền chủ nghĩa xã hội, sẽ không làm khó dễ trong việc cấp giấy xuất cảnh, nhưng cụ từ chối, quyết định ở lại chết tại Việt Nam . Chúng tôi vẫn nhớ lời cụ nói năm 1975: “Ông Đại Sứ à, tui đâu có ngán Việt Cộng, nó muốn đánh tui đánh tới cùng. Tui chỉ sợ mất nước, sống lưu đày ở xứ người ta. Nếu trời hại nước tui mất, tui xin thề ở lại đây và mất theo nước mình.” Cụ Trần văn Hương đã giữ lời hứa.

Đại tướng Dương văn Minh ra về, chúng tôi hẹn gặp lại nhau. Trong lúc nầy, về phía Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không quên nhắc nhở đại tướng Dương văn Minh gấp rút tổ chức lại quân đội, liên lạc thường xuyên với tướng Nguyễn khoa Nam, khuyến khích vị tướng nầy giữ vững các vị trí phòng thủ để còn một mảnh đất làm địa bàn ăn nói khi thương thuyết với phía bên kia. Ngay lúc đó tôi biết ông Dương văn Minh cách đây hai ngày đã liên lạc với người em ruột là thiếu tướng Dương văn Nhật, nhờ môi giới để nói chuyện thẳng với Bắc Việt. Vì hấp tấp, nông cạn, ông tưởng em ông có đủ tư cách đại diện cộng sản ngưng bắn tại Miền Nam . Từ chỗ móc nối sai lệch, tình thế đã xỏ mũi ông đến chỗ phá nát bấy hết kế hoạch hòa bình Việt Nam .

(GHI CHÚ của dịch giả DHN: Dương văn Nhật không phải là một thiếu tướng mà chỉ là một thiếu tá thường, trực thuộc MTGPMN nên không phải là một nhân vật quan trọng. Cộng sản đã cho về liên lạc thường xuyên với Dương văn Minh trước đó như là một liên lạc viên xoàng để săn tin mà thôi, và đã được lệnh kín đáo nằm luôn tại nhà Dương văn Minh từ khi chúng tiến chiếm tỉnh Banméthuột. Có lẽ ông Dương văn Minh muốn đưa em ông lên hàng tướng vì lý do thể diện chăng? Sau 30/4/75 mới là trung tá))

LÊ ĐỨC THỌ THÓA MẠ TÔI

Chuông điện thoại reo. Đầu dây bên kia tự giới thiệu:

– “Chào ông Đại Sứ, tôi là B trưởng B2 đây.””

Tôi chào lại và rất ngạc nhiên không biết B trưởng B2 là nhân vật nào. Thái độ thiếu lịch sự xã giao qua lời giới thiệu tên họ chức phận bằng bí danh của đầu dây bên kia chứng tỏ họ coi thường chúng tôi. Tôi gằn mạnh từng tiếng:

– “Nếu đầu dây bên kia muốn trao đổi câu chuyện với tôi thì nên tỏ ra lịch sự một chút. Khi tiếp xúc với một nhà ngoại giao thì dù thù hay bạn cũng vậy. Thưa ông B trưởng B2, chắc ông thừa hiểu ông đang nói chuyện với Đại sứ nước Pháp, và bắt buộc tôi phải cúp nếu ông không nói tên họ, chức phận. Nguyên tắc của ngành ngoại giao đối lập với ngành gián điệp là không tiếp xúc với hạng người bí mật.”

B2 xin lỗi tôi liền khi đó, bảo rằng ông ta sợ CIA phát hiện sự có mặt của ông ở Miền Nam trong lúc hoàn cảnh chưa cho phép ông xuất đầu lộ diện. Ông cũng rất phiền khi bị ép buộc nói tên họ:

– “Thưa ông Đại sứ, tôi là Lê đức Thọ, Tổng tư lệnh chiến dịch Hồ chí Minh.”

Thì ra Lê đức Thọ, con người khuynh đảo trong các cuộc hòa đàm Paris . Tiểu sử Thọ từ năm 1937 chúng tôi có đầy đủ trong tay, duy tôi chưa gặp mặt nên không nhận được giọng nói qua điện thoại. Sau Tết Mậu Thân, Phòng nhì Pháp đã có đủ tài liệu để biết Lê đức Thọ là Tổng chỉ huy bộ máy chiến tranh tại Miền Nam . Y từ Nga trở về hồi tháng giêng 1975, và đi thẳng vào Nam trực tiếp chỉ huy tổng tấn công Sài Gòn. Mà Phòng nhì biết thì CIA cũng biết. Tôi nói:

– “Chào ông Tổng tư lệnh, qua vai trò trung gian và với thiện chí lớn lao nhất, nước Pháp hết lòng đứng ra hòa giải các phe tranh chấp để sớm đạt được một nền hòa bình tại Việt Nam. Ông Tổng tư lệnh có cần gởi đến chúng tôi những quyết định gì từ phía Bắc Việt nhằm tức khắc giải quyết chiến tranh không? Chúng tôi sẽ chào mừng quyết định của quí vị.’

Thấy mình là kẻ chiến thắng trong canh bạc về sáng, Lê đức Thọ tố xa láng, không cần che đậy bề trái của sự thật nữa:

– ” Quyết định của đảng cộng sản chúng tôi là đánh gục Mỹ, thống nhất hai miền Nam Bắc, xây dựng nước Việt Nam theo con đường Mác xít Lê nin nít”.

– “Thưa ông Tổng tư lệnh, đó là mục đích. Còn quyết định chấm dứt cảnh cốt nhục tương tàn của người Việt, chưa thấy đảng cộng sản Việt Nam nói tới ?”

Lê đức Thọ hùng hồn giảng thuyết (chỗ nầy ông Mérillon không cho biết Lê đức Thọ nói bằng tiếng gì, vì y nói tiếng Pháp còn kém lắm:

– “Thưa ông Đại sứ, tôi xin nói về chính danh và ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Sau khi đánh bại bọn đế quốc Pháp, đảng và nhân dân chúng tôi tiếp tục sự nghiêp đánh bọn ngoại xâm đế quốc Mỹ. Cuộc chiến đấu nầy từ lâu đã được nhân dân thống nhất thành một phong trào chống Mỹ. Từ ngữ “cốt nhục tương tàn” tôi bảo đảm với ông đại sứ là do bọn tay sai ngụy quyền Sài Gòn khơi lên để kêu gọi lòng thương hại của chúng tôi, chớ không phải lời oán than từ phía nhân dân. Xác nhận như vậy để ông đại sứ thấy rằng chúng tôi chưa hề chính thức hóa một nghị trình hòa giải nào với bất cứ đãng phái nào tay sai trong Miền Nam với quyết định của chúng tôi là để thắng chớ không phải để hòa giải.”

– “Thưa ông Tổng tư lệnh, trường hợp nầy thì vị trí của MTGPMN ở đâu?”

– “Nó sẽ đứng ở chỗ giải tán khi: một là Đại sứ Mỹ bị bắt, hai là cuốn cờ bỏ chạy trước khi người cộng sản yêu nước tiếp thu Sài Gòn”.

– “Nếu đúng như thế, MTGP MN không phải là một thực thể riêng biệt, tách rời quyền lực HàNội đứng lên chống Mỹ từ 15 năm qua, và các ông đã lừa gạt dư luận quốc tế.”

– “Thưa ông Đại sứ, dư luận quốc tế hả ? Mà dư luận nào mới được chớ? Nếu dư luận quốc tế thuộc khối tư bản thì không xứng đáng để phẩm bình. Đối với nước Pháp chúng tôi xem là bạn. Thưa ông Đại sứ, chúng ta sẽ bang giao trong tình hữu nghị giửa hai nước.”

– “Trung Quốc đang yêu cầu chúng tôi dàn xếp một cuộc đình chiến tại Việt Nam, ông nghĩ sao?

– “Trung Quốc thuộc bọn xét lại, đã biến thể và phản bội nghĩa vụ giải phóng nhân loại qua chủ nghĩa Lênin. Mọi việc nhúng tay vào của Trung Quốc chúng tôi xem đó là hành động thù nghịch. Riêng ông Đại sứ, ngay bây giờ xin ông nhận lời cảnh cáo của chúng tôi. Nếu ông Đại sứ còn tiếp tay với Trung Quốc và các thế lực ngoại bang khác ngăn cản đà chiến thắng chống đế quốc Mỹ ở Miền Nam , thì 24 giờ sau khi tôi đặt chân vào Sài Gòn tôi sẽ trục xuất ông Đại sứ ra khỏi Việt Nam.”

– “Làm như vậy ông không ngại gây sự hiềm khích giữa hai nước sao?”

– “Không, Chánh trị và quyền lợi không chú ý tới những vấn đề nhỏ nhặt giữa hai nước . Pháp còn quyền lợi tại Việt Nam . Pháp đừng nên gây hấn với Việt Nam bằng giải pháp trung lập nầy nọ, cũng đừng nên chen vào nội bộ của chúng tôi.”

– “Thưa ông Tổng tư lệnh, ông nên nhớ Pháp ngày hôm nay không phải là Pháp đô hộ ngày hôm qua. Pháp chẳng có quyền lợi gì nếu phải bang giao với một nước Việt Nam cộng sản. Nếu ông cảnh cáo chúng tôi , bù lại xin ông và đảng cộng sản Việt Nam tiếp nhận lời cảnh cáo của chúng tôi là số tiền 300 triệu hằng năm viện trợ Miền Nam va 200 triệu viện trợ nhân đạo cho Bắc Việt sẽ không được chuyển giao nếu giải pháp trung lập bị bác bỏ một cách vô nhân đạo.”

Lê đức Thọ có vẻ căm tức, nhưng lần nầy vì lịch sự, y nói vài lời cáo lỗi rồi cúp điện thoại, đúng với ý muốn của tôi.

Thật ra chúng tôi cũng vẫn biết cuộc chiến tranh nầy do tập đoàn HàNội quản lý từ đầu đến cuối, nhưng không trắc nghiệm được phản ứng ngang tàng của họ mà đại biểu chánh thức là Lê đức Thọ, nhất định nuốt Miền Nam bằng lá bài quân sự.

Sự kiện nầy đã khuyến khích tôi tìm kiếm những phương pháp cấp thời chỉnh đốn lại quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữ vững phòng tuyến để kéo dài thời gian mặc cả.

Tôi rất ghét người cộng sản thiếu quân tử (đó là cái chắc!) khi họ thắng trận. Lê đức Thọ là một điển hình năm 1964. Thọ đã từng xin chúng tôi giúp y nói chuyện trực tiếp với Hoa Kỳ, chúng tôi không hề từ chối. Bất cứ điều gì cần đến, nếu thỏa mãn được thì chúng tôi cho ngay. Họ có mang ơn nước Pháp chớ nước Pháp chưa hề chịu ơn họ. Đến khi nước Pháp muốn Việt Nam có hòa bình trên nền tảng trung lập có thành phần quốc gia tham dự, HàNội đã bạc ơn từ chối.

Khi xe tăng Nga vượt hàng rào Dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng thì tới 3 giờ chiều Lê đức Thọ ngồi trên xe Falcon đến tòa Đại Sứ Pháp xấc xược đi thẳng vô phòng tôi nói:

– “Mérillon, tôi đến đây tống cổ ông rời khỏi Sài Gòn trước 9 giờ sáng mai ”

Tôi gật đầu. Sáng hôm sau ngày 1-5-75 , Thọ còn hạ nhục tôi bằng cách cho công an xét va li và bắt tôi phải ra HàNội trước khi về Pháp. Tôi phản đối. Khi phi cơ cất cánh, tôi ra lệnh cho phi công bay luôn sang Bangkok thay vì ra HàNội .

Hành động sỉ nhục một Đại sứ, Lê đức Thọ và công an Việt Nam phải trả một giá rất đắt. Tổng số ngân quỷ viện trợ nhân đạo hằng năm nước Pháp quyết định để dành mua sinh mạng người Miền Nam Việt Nam không hề cho HàNội một cắt nào suốt 10 năm sau.

Ngày 27 tháng 4/1975.

Chiều ngày 27/4/75, tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gởi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ, là bà Nguyễn thị Bình và ông Đinh bá Thi (ông này bị HàNội giết vài năm sau bằng tai nạn xe hơi tại vùng Rừng Lá Phan Thiết, sau khi bị Hoa Kỳ trục xuất về tội mua tài liệu tình báo kỹ thuật cho Liên Xô – Lời dịch giả). Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là 2 sư đoàn tập kết của Trần văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỏng tay trên của đạo quân Văn tiến Dũng.

CÁC TƯỚNG LÃNH Bị NHỐT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU

Chứng cớ mà Trần văn Trà lấn quyền HàNội trong mưu đồ Miền Nam tự trị được thể hiện ngay sau ngày 30/4/75 . Trần văn Trà chạy nước rút, tự ý thành lập Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn Gia Định hầu làm bàn đạp cho MTGPMN nhảy lên nắm chánh quyền trước khi Bắc Việt an bài chế độ cộng sản. Chung một mục đích: Bắc Việt đoạt chánh quyền để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, còn MTGPMN cướp chánh quyền với thâm ý tạo sự nghiếp danh vọng cá nhân. HàNội có Nga Sô làm điểm tựa, có toan tính theo từng sách lược, còn MT là những chánh trị gia thời cuộc có tính cách giai đoạn nên cuối cùng bị thua trắng tay, bị cưỡng bức phải giải tán, cán bộ bị hạ từng công tác (hay thanh trừng) trong thầm lặng.

Dựa theo quan niệm “còn nước còn tát”, chúng tôi không bỏ lở một cơ hội nào có thể duy trì nhịp thở của Việt Nam Cộng Hòa đang hấp hối vào giờ cuối của cuộc chiến. Lúc 9 giờ tối ngày 27/4/75 , chúng tôi họp với các tướng lãnh De Séguins, Pazzi, Bigeard, Langlais, Vanuxem, Gilles, Pierre Bodet. Các tướng nầy đến Sài Gòn ngày 16/4 trong hảo ý phối hợp với các tướng lãnh Việt Nam từng được Pháp đào tạo trước kia để phản công lại Bắc Việt. Họ đến với tư cách cá nhân.

Qua lời xác nhận của tướng Gilles, chỉ huy quân đoàn nhảy dù Pháp trong trận Điện biên Phủ, thì thiếu tuớng Phạm văn Phú không phải thuộc hàng tướng lãnh bỏ lính khi thua trận và chạy dễ dàng như vậy. Tướng Gilles yêu cầu tôi can thiệp với chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trả tự do cho tướng Phú lúc đó đang bị ông Thiệu nhốt chung với các tướng lãnh khác trong Bộ Tổng Tham Mưu. Ông Thiệu đã làm một việc quá nguy hiểm. Đang lúc quân đội cần tướng mà tướng lãnh bị tống giam, như vậy là có ác ý đập tan nát Bộ Tham Mưu Hành Quân của Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 29/4, tướng Phú nằm trong bệnh viện Grall. Tôi điện thoại trấn an ông, yêu cầu ông đừng bỏ đi sẽ tạo thêm tình trạng hỗn loạn hoang mang cho binh sĩ. Ông húa sẽ không bỏ chạy, nếu không phản công giữ được Sài Gòn thì ông thề bỏ xác tại bệnh viện nầy. Tướng Phú đã giữ lời hứa. Ông là một tướng lãnh mà chúng tôi hết sức tin tưởng trong ván bài trung lập sau Dương văn Minh. Tối 29/4, được tin Dương văn Minh sẽ đầu hàng cộng sản vào sáng mai, ông đã dùng độc dược tự sát.

Các tướng lãnh Pháp cũng đề nghị tôi thực hiện kế hoạch bỏ trống Sài Gòn qua 2 giai đoạn:

– Giai đoạn 1.- Rút phân nữa quân gồm lực lượng tự vệ, an ninh, cảnh sát, những binh đoàn nhảy dù, thủy quân lục chiến , biệt động quân, và các binh chủng thuộc bộ binh, lén di chuyển lúc nửa đêm, sau lưng cộng sản đi lên các tỉnh Bình Dương, Tây Ninh, Phước Long, với nhiệm vụ tái phối trí lực lượng và bồi dưỡng tinh thần binh sĩ.

Phân nữa kia, gồm Hải quân và Không quân di chuyển về miền Tây để dùng cho các trận chiến sông ngòi, cắt đường tiến của cộng sản tràn xuống Quân khu 4 . Mời hai tướng Dương văn Minh và Trần văn Trà công bố chánh phủ trung lập. Sài Gòn là vùng phi quân sự nơi chỉ nói chuyện, thương thuyết bằng giải pháp chánh trị. Sài Gòn không có quân, cộng sản không có cớ đễ tàn phá.

– Giai đoạn 2.- Phản công trên cơ sở du kích, chiếm lại lần hồi đất đai đã mất và chờ quân viện mới. Thay thế chánh phủ trung lập bằng một chánh phủ lưu vong Việt Nam Cộng Hòa. Vai trò Dương văn Minh đến đây coi như chấm dứt. Các tướng Phạm văn Phú, Nguyễn khoa Nam, Lê nguyên Vỹ, Ngô quang Trưởng được xem là thành phần chủ lực cho chiến trường tương lai.

Các tướng lãnh hồi hưu Pháp quả quyết sẽ tìm được nguồn quân viện chẳng mấy khó khăn, qua sự đóng góp của các cựu quân nhân Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Do Thái… nếu có lời kêu gọi của Hiệp Hội Cựu Quân Nhân Thế Giới Tư Do.

Sáng ngày 28/4/75 , tôi chuyển hết kế hoạch nầy cho Dương văn Minh và định tối 28 thì sẽ hoàn tất kế hoạch.

KẾ HOẠCH CHƯA ĐƯỢC THỰC HIỆN?

Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi trình bày tỉ mỉ về quân số của đôi bên.

– Quân cộng sản Bắc Việt hiện đang bao vây Sài Gòn gồm các sư đoàn 304, 308, 312, 320, 322, 325 và 2 sư đoàn MTGPMN, 300 thiết giáp, 600 đại bác đủ loại. Tổng cộng quân số khoảng 70.000, tính cả lực lượng trừ bị. Đúng như lời Trung Quốc thông báo, HàNội tung hết quân, bỏ ngỏ HàNội . Giá lúc ấy Trung Quốc chỉ cần cho một vài sư đoàn diễn binh trên biên giới Hoa Việt thì lập tức HàNội sẽ tự ý ngưng chiến và tán thành chánh phủ trung lập rất mau lẹ. Rất tiếc.

– Quân số Biệt khu Thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Can cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chấp nhận chiến đấu thì Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng.

Trong 7 tháng đó biết đâu tình hình lại chẳng thay đổi theo chiều hướng khác? Chúng tôi đưa ra sự kiện nầy nhằm bác bỏ lập luận nói rằng cộng sản Việt Nam sẽ thiêu hủy Sài Gòn với số quân gấp 5 lần.

Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán. Lại yêu cầu các vị Lãnh Sự ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Đà Lạt, Hué gấp rút kiểm tra lại tổng số Pháp kiều, và phải tiếp tục ở lại nhiệm sở để trấn an dư luận. Khi đó có 722 người là người Pháp chính gốc, 9500 người có quốc tịch Pháp, 11.000 trẻ em lai Pháp sống tại các cơ quan từ thiện. Tất cả 21.000 người nầy sẽ được đưa về Pháp định cư. Tuy nhiên để cứu thêm mạng người, chúng tôi sẽ gởi cho HàNội danh sách đăng ký cho hồi hương thêm những người hồi tịch Pháp, cựu quân nhân tham dự bên cạnh quân đội Pháp trong hai thế chiến, công chức thời Pháp và nhân viên làm việc trong các cơ sở tư nhân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Mỗi người hội đủ điều kiện như vừa quy định có thể kéo thêm gia đình anh em ruột thịt, con cháu dâu rể bên ngoại cũng như bên nội. Kết quả chúng tôi đem về Pháp tất cả 80..000 người. Để mua thêm người cộng tác với Pháp, mỗi năm chánh phủ Pháp phải trả cho cộng sản máy cày, dược phẩm, các bộ phận bảo trì công ty nhà đèn, thủy cục, nông phẩm v.v…

Chiều 28/4, tướng Pazzi xuống Cần Thơ gặp tướng Nguyễn khoa Nam . Sau đó khi trở về tướng Pazzi cho biết miền Tây rất khả quan, chỉ có quốc lộ 4 tạm thời bị cắt đứt. Tướng Nguyễn khoa Nam đã hai lần yêu cầu ông Dương văn Minh cho phép ông đem quân giải tỏa Quốc lộ 4, phản công.., nhưng Dương văn Minh dặn đi dặn lại mấy lần là đừng phản công mạnh, tạm thời ở tư thế chờ, để ông tìm giải pháp chánh trị tại Sài Gòn. Tướng Nam than thở với tướng Pazzi: “Nếu tôi đánh mạnh là bất tuân thượng lệnh, nếu tôi đánh nhẹ thì tinh thần binh sĩ mất hết. Đến giờ nầy mà bức màng chánh trị còn bịt mắt quân đội. Ông nói lại với tướng Minh giùm là nước tràn bờ mà không cho đắp đê ngăn lại! Ông làm chứng giùm tôi: Quân đoàn 4 chúng tôi không thua. Chính trị Sài Gòn đã trói tay chúng tôi bắt buộc chúng tôi phải thua.”

Sáng ngày 30/4/75, sau khi nghe Dương văn Minh đọc bản “trao nước cho giặc”, tướng Nguyễn khoa Nam cùng nhiều tướng lãnh liêm sĩ khác đã chọn câu nói của Voltaire để giữ danh dự của người làm tướng; “Còn giữ được danh dự là chưa mất mát nhiều.”

Trời đã vào đêm rồi. Đại bác, súng liên thanh nổ gần hơn. Làn sóng người ngơ ngác tìm đường chạy trốn cộng sản nghẹt cứng cả thành phố. Ông Đại tướng Dương văn Minh đâu? Tướng Trần văn Trà đâu? Tại sao những người nầy không xuất hiện để thành lập chánh phủ liên hiệp? Tôi tự hỏi như thế.

Tôi lo lắng, gọi điện thoại về nhà ông Dương văn Minh. Người trả lời là trung tá Đẩu, chánh văn phòng: “Dạ thưa ông Đại sứ, Đại tướng chúng tôi hiện đi lên Xuân Lộc thương thuyết với người phía bên kia.”

Bỗng nhiên đầu óc tôi căng cứng từng mạch máu, tay chân bủn rủn. Ông Minh lên Xuân Lộc có nghĩa là gặp trực tiếp thượng tướng Lê đức Anh, phụ tá Văn tiến Dũng, nơi đây đang có mặt Lê đức Thọ. Tức là ông Đại tướng đi thẳng với phe Bắc Việt. Ông Minh đi trên tư thế nào? Quân không có, quan cũng không, chánh phủ chưa có gì hết. Như vậy chỉ là đi đầu hàng Bắc Việt. Công việc nầy không cần đến một Đại tướng! Trao cho một em bé đánh giầy 10 tuổi cũng làm được.

Cái hướng mà ông Minh cần đi là hướng Củ Chi, nơi thượng tướng Trần văn Trà đang chờ… Chờ đến kiếp sau !

Những gì mà ông Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trể phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Đại tướng có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã.

Thâm ý của ông Minh là muốn đầu hàng, sau đó ngồi ăn, hưởng cho đến già.

(Lời dịch giả D.H.N.: Thật đúng như ông Mérillon đã nói, từ ngày 30/4/1975 cho đến ngày nay 1996, Dinh Hoa Lan của ông Minh không mất một chiếc đủa, không mất một cành hoa, một bụi cỏ nào. Khi ông rời Việt Nam để đi định cư ở Pháp với toàn bộ gia đình, ông được tự do mang theo bất cứ thứ gì ông muốn, từ những món đồ cổ đến những kỹ vật, thượng vàng hạ cám… cộng sản phải dùng mấy xe vận tải đưa các thùng tài sản của gia đình ông xuống bến tàu cho ông. Dinh Hoa Lan ở đường Testard, bất động sản riêng của ông được ông giao cho trung tá Khử giữ gìn và quản lý, đến giờ nầy không một tên cộng sản nào dám đụng đến. Trung tá Khử hiện là chủ một vườn trồng lan tại Thủ Đức, cuối thập niên 80 là tổng thơ ký của Hội Hoa Lan Việt Nam ).

Ngày 29/4/1975, 8.00 giờ tối, sau khi nhận lãnh chức Tổng Thống do cụ Trần văn Hương bàn giao lại, ông Minh điện thoại xin lỗi chúng tôi, bày tỏ sự hối tiếc đã không hợp tác được với chánh phủ Pháp. Cách duy nhất mà ông phải chọn là đầu hàng Bắc Việt mới mong cứu sống được thủ đô Sài Gòn.

Tôi lạnh lùng trả lời một câu duy nhất:

– “Thưa Đại tướng, chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc. Giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam cần có một người lãnh đạo cương quyết, dám dấn thân, nhưng chúng tôi lại đi chọn lầm một bại tướng.”

Tôi cúp điện thoại ngay, và từ 10 năm qua tôi không hề và cũng không muốn liên lạc với ông ta nữa.

NGÀY 1 THÁNG 5

Lúc phi cơ xoay qua một độ nghiêng, lấy hướng qua Bangkok , tôi nhìn xuống Sài Gòn lần chót. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một niềm ngậm ngùi thương tiếc tất cả những gì đang xảy ra dưới đất. Tôi như người bại trận, hay nói cách khác, tôi xin được làm bạn với người bại trận, một người bạn đã không chia xẽ mà còn bắt buộc Việt Nam Cộng Hòa phải gánh chịu hết tất cả … trong những ngày sắp tới.

Việt Nam và tôi có rất nhiều kỹ niệm, có quá nhiều quan hệ mật thiết suốt đời không phai lạt. Sống ở Việt Nam lâu năm, tôi cảm thấy thương xứ sở nầy. Tội nghiệp cho họ, họ có thừa khả năng dựng nước, nhưng cái quyền làm chủ quê hương đã bị các cường quốc chuyền tay nhau định đoạt. Tôi xin lỗi người Việt Nam . Tôi đã làm hết sức mình nhưng không cứu vãn được nền hòa bình cho dân tộc Việt. Vĩnh biệt Sài Gòn, Sài Gòn vẫn hồn nhiên với những mạch sống dạt dào ơn nghĩa, một khi đã chọn bạn hữu thâm giao.

Năm 1979, Đại sứ Võ văn Sung có thư mời tôi trở lại thăm Sài Gòn. Tôi từ chối với lý do không quen với cái tên Hồ chí Minh. Sài Gòn đã mất, tôi trở lại đó thăm ai? Ở đời có khéo lắm cũng chỉ gạt được người ta lần thứ hai, làm sao lừa dối được người ta lần thứ ba? Người cộng sản giả bộ ngây thơ (ở một khía cạnh nào đó) nên tưởng nhân loại cũng đều ngây thơ như họ. Liên tục nói dối hàng bao nhiêu năm, tưởng như vậy quần chúng sẽ nhập tâm tin là thật. Họ lầm. Nói láo để tuyên truyền chỉ có lợi trong chốc lát, nhưng về lâu về dài thì chân lý của loài người sẽ đè bẹp họ. Ngày xưa Liên Xô đã xiết chặt sai khiến họ, dùng Việt Nam làm phương tiện đóng góp cho Nga. Họ có muốn thoát ly, có muốn nhờ Tây Phương tháo gở cho họ cũng không được nữa, vì đã từng phạm lỗi lớn là đã lường gạt Tây Phương..

Sau hết, chế độ Việt Nam Cộng Hòa thua, nhưng thật ra người Việt Nam chưa thua cộng sản . Trận chiến chưa chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Mỗi năm, vợ chồng chúng tôi đều đi xuống Lourdes để kính lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Luôn luôn tôi nhắc nhở nhà tôi, chúng tôi cùng cầu nguyện cho người Việt Nam đạt được nền hòa bình theo sở nguyện của họ. Tôi tin rằng Đức Chúa Trời và Đức Mẹ không bỏ rơi dân tộc Việt Nam .

Jean Marie MÉRILLON
Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam

April 18, 2008

audio lịch sử 30/4/1975 giải pháp chính trị ?

Cuốn hồi ký của đại sứ Pháp nói về những ngày cuối của VNCH :
– VNCH có thật sự thua cs không hay là bị bó tay vì thế lực quốc tế (Mỹ, LX, Tàu) ?
– CSVN có vi phạm HĐ Paris không ?  MTGPMN ở đâu, có quyền hành gì không hay là công cụ bù nhìn của csBV ?
– Ván cờ chính trị đã được giải quyết ở Bắc Kinh, Hoa Thịnh Đốn (từ 1973) !
http://www.mediafire.com/?mumnowfmztu

 – 1974-75, Bắc Kinh đã đề nghi giúp  VNCH đánh lại csvn qua tòa đại sứ VNCH ở Âu châu (BK chận đường tiếp vận vũ khi LX tư phía bắc, tấn công miền bắc bỏ ngỏ, tiếp vận miền Nam VNCH qua ngả Cam Bốt, biển). BK thay Mỹ ngăn chặn làn sóng đỏ cs (theo Liên Xô). VNCH từ chối, thà mất chính quyền hơn là lệ thuộc, mất nước cho csTQ.
– Sau đệ II thế chiến, thế giới đi vào  chiến tranh lạnh vì sự  bành trướng của cncs, thực dân đỏ kiểu mới, dùng người cs bản xứ thừa sai (cs quốc tế) cai trị người bản xứ..
Năm 1950-53, thế giới tự do nhập trận giúp Nam Hàn tự do chống lại sự xâm lãng của cs Băc Hàn và cs TQ, Liên Xô.  Một hiệp ước đình chiến ký kết vào 1953.
– Mỹ áp dụng  chính sách “be bờ”, ngăn chặn, và đặt quân đội ở những nơi có thể có nguy cơ có sự xâm lăng của khối cs : Tây Đức, Nam Hàn, Nhật, …
Chiến lược của Mỹ và VNCH là “luật chiến tranh”, không có mục đích tấn công ra bắc, giải phóng miền Bắc. Mỹ không muốn đối đầu cùng lúc với LX và TC, có vũ khí nguyên tử.
– VNCH chiến đấu bảo vệ lãnh thổ miền Nam và an ninh xã hội, chống lại sự xâm nhập, khủng bố trong miền Nam. Đồng thời phát triển kinh tế.   CSBV xâm lăng và công cụ bù nhìn MTGPMN nằm vùng (vi phạm HĐ Geneve 54) lũng đoạn, phá hoại chính trường, xã hội miền Nam, đe dọa khủng bố người dân.
Trong ván cờ này thì “thắng/thua”   đã rõ về lâu dài, nhất là khi Mỹ đổi chiến lược, dùng TC ngăn chặn sự bành trướng của cncs quốc tế LX mà csbv là tay sai  (giai đoạn này có mâu thuẫn quyền lực, chính sách giữa cs LX/TC), khai thác thị trường kinh tế ở xứ TQ đông dân, mang khoa học kỹ thuật đến hy vọng nâng cao dân trí dân TQ.
30/4/75 :
+ CNCS LX đã thắng tạm thời ở khu vực đông Nam Á
+ csvn cũng xem như đã hoàn thành “sứ mạng làm nghĩa vụ quốc tế vô sản”, áp đặt cncs trên toàn cõi VN; chuẫn bị tấn công sang các lân bang;
+ cs bần cùng hóa nhân dân để dễ bề cai trị; tướt đoạt mọi nhân quyền, dân quyền;
+ Toàn dân VN đã thua nặng !!
+ Khởi đầu cho giai đoạn thoái trào của cncs, csvn !!
+ Nhân dân VN, kể cả MTGPMN, những người theo cs, bắt đầu nhận chân rõ ràng BỘ MẶT GIAN TRÁ cs, mị dân, PHẢN BỘI, nô lệ chủ nghĩa vong bản man rợ, tay sai ngoại bang, quốc tế cs !!
1989-1991: CNCS hoàn toàn sụp đổ ở Đông Âu, và Liên Xô !!
+ TQ thắng to : lợi dụng chiến tranh VN để thương lượng với Mỹ, lấy được biển đông VN, HS TS; có thời gian hiện đại hóa TQ; thay Đài Loan vào HĐBA LHQ.


VÀI NÉT SƠ VỀ ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, TỰ DO Ở 2 MIỀN:
 
MIỀN NAM VN: 1955-1975:
Thể chế chính trị: tự do dân chủ, đa nguyên đa đảng ;
Cơ cấu chế độ: cộng hòa; tam quyền phân lập : hành pháp lập pháp, tư pháp độc lập;
Tên gọi : VNCH
Chủ trương : chống lại cncs dưới mọi hình thức; xây dựng bảo vệ : tự do dân chủ, công bằng, xã hội văn minh đúng với hướng đi của nhân loại; lo phát triển kinh tế.
Đường lối kinh tế: kinh tế thị trường, tôn trọng quyền tư hữu; tạo điều kiện, khuyến khích mọi người học tập, sáng tạo, sản suất; có làm có hưởng tương ứng;
Quân đội : nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, biên cương, hải phận; không lệ thuộc bất kỳ đảng nào;
Công an : nhiệm vụ bảo vệ an ninh xã hội, an ninh người dân; không lệ thuộc bất kỳ đảng nào; không được quyền bắt bớ tùy tiện nếu không có lệnh tòa án (ngoại trừ vi phạm nghiêm trọng an ninh quốc gia )
Tự do báo chí, truyền thông, báo chí tư nhân: được nhà nước bảo đảm, tôn trọng, bảo vệ trong thực tế;
Tự do tôn giáo, tín ngưỡng độc lập : được Hiến pháp, nhà nước bảo đảm, tôn trọng trong thực tế;
Tôn trọng nhân quyền, dân quyền: được Hiến pháp, nhà nước bảo đảm, tôn trọng trong thực tế;
Tự do ngôn luận, tư tưởng cá nhân : được Hiến pháp, nhà nước bảo đảm, tôn trọng trong thực tế;
Tự do lập hội, lập đảng, đi lại, biểu tình : được Hiến pháp, nhà nước bảo đảm, tôn trọng trong thực tế;
Khẩu hiệu: Tổ quốc trên hết; Danh dự, tổ quốc trách nhiệm; Tiên học lễ, hậu học văn;
Chỉ số kinh tế GDP : thu nhập đầu người/năm : hơn Thái Lan, Đài Loan, Nam Hàn, …
Ngân sách quốc gia, thuế : để điều hành cơ cấu nhà nước, phục vụ và nâng cao đời sống đồng bào, an sinh xã hội; không chi trả cho sinh hoạt đảng phái;
Giáo dục :  trường học miễn phí (tiểu học, trung học, đại học); cũng có trường tư;
Y tế  :  bịnh viện miễn phí ;  cũng có BV tư;

MIỀN BẮC VN: 1955-1975:
Thể chế chính trị: độc tài toàn trị; độc đảng độc tôn (vài đảng khác, nếu có chỉ là bù nhìn, mị dân);
  là bộ phận của cs quốc tế, lãnh đạo bởi cs LX/TQ;
Cơ cấu chế độ: tam quyền phân CÔNG : hành pháp lập pháp, tư pháp dưới sự lãnh đạo của đảng cs;
Tên gọi : VNDCCH VN dân chủ CH (dân chủ ???)
Chủ trương : xây dựng CNXH, CNCS (hoang tưởng) ; chuyên chính vô sản; đấu tranh giai cấp; xã hội : dân chủ, công bằng, văn minh (mị dân); “giải phóng miền Nam, chống Mỹ cứu nước” (chiêu bài); “thống nhất” (??, vì chính HCM chia 2 VN, rồi gây chiến để thống nhất, áp đặt cncs lên toàn nước, rồi cả Đông nam á)
Dân chủ : hình thức, lừa mị; chỉ có tập trung dân chủ trong tay vài người trong Bộ chính trị cs; thực chất là độc tài vì chế độ không tôn trọng tiếng nói đối lập của người dân ; (cs chơi chữ)
Độc lập tự do : có tính “tập thể” ; không có tính cá nhân (lừa bịp, chơi chữ); !
Bầu cử, ứng cử, tranh cử: lừa bịp, đảng cử dân bầu; người dân không làm chủ lá phiếu của mình vì những thủ đoạn kềm kẹp của cs;
Đường lối kinh tế: kinh tế tập trung, không chấp nhận quyền tư hữu; đất đai, ngân khố quốc gia là của “nhân dân” (??), nhưng thực chất là của đảng;

Quân đội : nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, biên cương, hải phận; CÔNG CỤ của đảng cs, ưu tiên bảo vệ đảng;
Công an : nhiệm vụ bảo vệ an ninh xã hội, an ninh người dân; CÔNG CỤ của đảng cs, ưu tiên bảo vệ đảng; bắt bớ tùy tiện với những màn vu khống, dàn dựng;
Tự do báo chí, truyền thông, báo chí tư nhân: CÔNG CỤ của đảng cs, không được tôn trọng, bảo vệ trong thực tế; mặc dù Hiến pháp có quy định với lối chơi chữ lừa bịp “theo quy định của pháp luật”, kết quả : xin / chờ và không cho !!
Tự do tôn giáo, tín ngưỡng độc lập : KHÔNG tôn trọng trong thực tế; CÔNG CỤ của đảng cs, không được tôn trọng, bảo vệ trong thực tế; mặc dù Hiến pháp có quy định với lối chơi chữ lừa bịp : xin / chờ và không cho !!
Tôn trọng nhân quyền, dân quyền: KHÔNG tôn trọng trong thực tế; CÔNG CỤ của đảng cs, không được tôn trọng, bảo vệ trong thực tế; mặc dù Hiến pháp có quy định với lối chơi chữ lừa bịp : xin / chờ và không cho !!
Tự do báo chí, ngôn luận, tư tưởng cá nhân : KHÔNG tôn trọng trong thực tế; CÔNG CỤ của đảng cs, không được tôn trọng, bảo vệ trong thực tế; mặc dù Hiến pháp có quy định với lối chơi chữ lừa bịp : xin / chờ và không cho !!
Tự do lập hội, lập đảng, đi lại, biểu tình : KHÔNG tôn trọng trong thực tế; CÔNG CỤ của đảng cs (MTTQ), không được tôn trọng, bảo vệ trong thực tế; mặc dù Hiến pháp có quy định với lối chơi chữ  : xin / chờ và không cho !! Tất cả mọi tổ chức, hội đoàn ĐỀU là công cụ tung hô, tay sai của đảng qua cái gọi là MTTQ !
Khẩu hiệu:
Yêu nước là yêu xhcn, yêu đảng (giáo điều, cực đoan, độc đoán, độc tài trong một thế giới tiến hóa và cần hoàn thiện không ngừng); đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách (không ai lấy trách nhiệm cả ); đặt quyền lợi của đảng trên quyền lợi của tổ quốc, nhân dân !

VN: 1975 – 86:
– Không có gì thay đổi so với thời ở miền băc;
– Bần cùng hóa nhân dân;
– tù cải tạo, trả thù nhân dân miền nam, cướp nhà, đất, tiền, cơ sở sản xuất…;
– tướt đoạt quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân, quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, dân quyền;
– xã hội không có: tự do, dân chủ, công bằng, công lý THỰC SỰ ! (tất cả chỉ là trò hề, nói dóc !)
– Cả nước tụt hậu; lòng dân ly tán; phong trào vượt biên tìm tự do;
– Ngân sách quốc gia, thuế : nuôi 2 bộ máy song song chồng chéo phí phạm : nhà nước và đảng !
– Đó là giải phóng của cs ngu muội, tham tàn.

VN: 86-2008:
– Mở cửa kinh tế để cứu đảng trước, cởi trói cho dân (vì cs chuyên trò trói dân !), nhưng vẫn do kinh tế “quốc doanh” chủ đạo, đục khoét công quỹ, tiền viện trợ, nợ quốc tế, …;
– Chính trị không có gì thay đổi, vẫn độc tài toàn trị ;
– xã hội đầy dẫy bất công, phân chia giai cấp, phe đảng, gốc gác, …
– Tham nhũng trở thành quốc nạn, quốc sách, từ trung ương xuống mọi địa phương
– tướt đoạt quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân, quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, dân quyền;
– cướp nhà, cướp đất của dân, …
– xã hội không có: tự do, dân chủ, công bằng, công lý THỰC SỰ ! (tất cả chỉ là trò hề !)
– Chế độ hộ khẩu và công an trị, theo luật rừng xanh;
– Cả nước tụt hậu; đói nghèo, khoảng cách giàu nghèo KHUNG KHIẾP !

– Đất đai, công ty, hạ tầng cơ sở , đa số nằm trong tay tư bản đỏ (cs vn, TQ), tư bảng ngoại bang khác;
– VN đã mất : Ải Nam qua, 1 thác Bản giốc, núi Lão Sơn, …. (có mỏ vàng, …; khoảng trên 720 km2 biên giới phía bắc; csvn chưa dám công bố chính thức bản đồ biên giới, hải phận VN trước và sau khi ký hiệp ước 1999, 2000); Hoàng Sa, nhiều đảo ở Trường Sa; dầu mỏ khi đốt; và sẽ tiếp tục mất, …
– Lên tiếng bảo vệ Hoàng Sa Trường sa là cái tội đối với nhà nước CS !

– Nơ nần quốc tế khá lớn, bị bưng bít bí mật; tài nguyên quốc gia (dầu mỏ, hải sản) cạn dần, đất đai hẹp dần, vào tay ngoại bang và tư bản đỏ;
– Văn hóa suy đồi và đạo lý băng hoại; kinh tế tụt hậu; lạm phát tăng phi mã;

– Đcsvn làm cai thầu cho ngoại bang, tư bản đỏ (Tàu, với tham vọng bành trướng, thôn tính VN), và tư bản trắng. Đcsvn đi buôn làm giàu cho đảng :
cùng tư bản bóc lột lao động nội địa;
khai thác dục tình, đỉ điếm;
xuất khẩu lao nô;
xuất khẩu dục nô (cô dâu lấy chồng ngoại, đỉ điếm);
bán tài nguyên quốc gia (dầu thô, gỗ quý, …);
tham nhũng viện trợ quốc tế, ngân sách quốc gia; …
bóc lột dân qua những luật lệ, chính sách phi lý, bất công, …
Cướp đất của dân, và bán cho tư bản … ;
Dựa vào ngoại bang để bóc lột, thống trị nhân dân;

Lợi dụng ngoại tệ của người Việt hải ngoại  (5-10 tỉ/năm)

– dân nghèo, nước yếu, lòng dân lý tán, phẩn nộ : mãnh đất màu mỡ để ngoại bang xâm chiếm (tằm ăn dâu, …); chúng ta đang mất nước; dân tộc suy vong, suốt đời làm nô lệ từ đời này sang đời khác lâu dài;

– Chỉ số kinh tế GDP : với 8% tăng trưởng / năm (chưa tính lạm phát, nếu mấy nước kia đứng yên); thu nhập đầu người/năm : cần 33 năm để bằng Thái Lan; cần 150 năm để bằng Nam Hàn; cần 197 năm để bằng Singapor ; …
– Ngân sách quốc gia, thuế : nuôi 2 bộ máy song song chồng chéo phí phạm : nhà nước và đảng !

Dân oan khắp moi miền gọi đcsvn là đảng cướp, mafia  cũng chẳng ngoa.
Nào là: cướp chính quyền, cướp quyền tự do của dân, cướp quyền dân tộc tự quyết, cướp nhà cướp đất của dân, cướp quyền mưu cầu hạnh phúc, bán nước hại dân cầu vinh, …
Đảng đã dựa vào ngoại bang để chống lại nhân dân, phản bội dân tộc !

Những cuộc chiến phát động bởi csbv qua nhiều chiêu bài giả trá, là vô nghĩa, phi lý, phi nghĩa, phản bội dân tộc;
Cuộc chiến VN là một cuộc chiến Ý thức hệ (độc tài toàn trị cs / tự do dân chủ), hoặc cuộc chiến “giữa chủ nghĩa cs và chủ nghĩa dân tộc” (đọc hiến pháp Csvn và VNCH : giải phóng, xây dựng XHCN / chống cncs, bảo vệ tự do dân chủ ở miền Nam), kết hợp/thông qua cuộc nội chiến Nam/bắc VN, mà kẻ chủ chiến là khối cs quốc tế thông qua tay sai là csbv và công cụ là MTGPMNVN. 

Nếu csbv tôn trọng HĐ Geneve 54 (giống Bắc Hàn sau 1953, Đông Đức), không gài VC nằm vùng trong Nam (Le Duan, …), không phát động chiến tranh “giải phóng, thống nhất, chống Mỹ” (chiêu bài), không khủng bố đồng bào, phá hoại xã hội miền Nam, thì Mỹ cũng không ồ ạt mang quân vào Nam VN kể từ 1964-65. BCT csbv ra nghị quyết “giải phóng miền Nam, xây dựng XHCN” vào năm 1959 (mấy tháng trước nghi định 10/59 của TT NĐ Diệm), và dựng ra MTGPMN vào năm 1960.  Khi người dân miên bắc không được hít thở không khí tự do (quy định bởi HĐ Geneve) thì làm sao tổ chức được tổng tuyển cử ?? Bằng cớ là : CCRĐ 1953-56, sau 20/7/54 cũng còn nhiều người dân miên bắc VN bị cs ngăn chặn không cho tự do vào Nam, và hiện nay người dân VN vẫn bị tướt đoạt quyền con người, dân quyền, chỉ có “độc đảng cử buộc dân bầu” từ hơn 60 năm qua  (bầu QH 20/5/2007 cũng vậy ) !
Ngoài ra, sau 21/7/1954, miền Bắc cũng có  cố vấn quân sự TQ/LX như trong Nam có cố vấn Mỹ.  Mặt khác, sau đệ II thế chiến, quân đội Mỹ cũng có đóng ở Tây Đức, Nhật, Nam Hàn để giúp họ ngăn chặn làn sóng xâm lăng của cncs quốc tế, thế mà mấy nước đó có bị mất chủ quyền, mất đất mất biển đâu.  Ngược lại, họ còn được Mỹ giúp phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật, nên khoảng 20 năm sau Tây Đức và Nhật đã trở thành cường quốc kinh tế và khoa học kỹ thuật.

Trong cuộc chiến 1946-54, 1959-75, có sự hiện diện của khoảng 320 ngàn quân đội TC (hồi ký Hoang Văn Hoan, ủy biên BCT csbv) và hơn 3000 lính Liên Xô ở miền Bắc VN.  Có điều là chế độ miền bắc là cs độc tài toàn trị nên mọi thông tin đều bị bưng bít !! 

Nếu miên Nam VN không bị csbv xâm lăng, chắc chắn VN không bị mất quần đảo Hoàng Sa và một số đảo Trường Sa (sẽ mất hết),  biển đông, đất đai biên giới phía bắc VN-TQ, đất nước không tụt hậu, ít ra cũng bằng Nam Hàn, Đài Loan !!

Hãy nhìn  Bắc Hàn (Nam Hàn), Đông Đức (Tây Đức), Cuba và các nước đông âu được giải phóng thực sự khỏi ách cs man rợ là đã rõ !!  Trong khi csvn tự nguyện làm nô lệ cncs, và choàng cái ách nộ lệ này lên toàn dân VN một cách độc tài độc đoán,  phi dân chủ, không tự do, phản dân tộc, kéo VN thụt lùi hơn nửa thế kỷ  !

(thanhhuong)

March 20, 2008

Thư gởi “Thành phần thứ Ba”

Khánh Hưng

I.
Tôi có một người chú bà con, có học nhất, có tư cách nhất, và được tôn trọng nhất trong dòng họ. Trước năm 1975, ông ấy là một linh mục Công giáo trẻ, là hiệu trưởng của một trường trung học, và có chân trong nhiều tổ chức xã hội có tiếng. Có thể nói, thời ấy, ông có đầy đủ, vừa danh dự, vừa quyền hành, và cả vật chất. Các tổ chức nhân đạo phi chính phủ cấp cho ông kinh phí một cách hào phóng để xây trường học và các cơ sở xã hội mà ông muốn. Ông có đủ các loại xe và phương tiện để phục vụ cho công việc của ông. Các viên chức chính quyền miền Nam từ quận trưởng, tỉnh trưởng cho đến những cấp cao hơn luôn tỏ ra kính trọng và cả sợ hãi chú tôi.

Tôi đã từng chứng kiến một tỉnh trưởng nói với ông: “Xin cha nguôi giận tha cho con”, dù ông tỉnh trưởng này lớn hơn ông trên 10 tuổi. Thế nhưng ông là người thường xuyên tổ chức những cuộc biểu tình chống chính quyền miền Nam một cách quyết liệt. Tôi luôn nhớ cái khẩu hiệu của ông, “chính quyền miền Nam là một chính quyền tham nhũng, và thối nát.”

Ngày 30/4/1975, ông tỏ ra vui vẻ khi bộ đội giải phóng đến mượn trường học và nhà ở của ông làm nơi đóng quân tạm. Sau ba tháng, bộ đội dọn đi và họ dọn luôn toàn bộ cái tài sản công lẫn tư của ông. Họ không chỉ tháo tôn, khung gỗ, mà cạy luôn cả gạch móng của tất cả những trường học và cơ sở của ông. Tám tháng sau ngày miền Nam giải phóng, ông bị đưa đi “cải tạo” trong thời gian hai năm. Vậy mà, suốt ba mươi năm qua, tôi chưa hề thấy ông một lần dám cãi lại anh trưởng công an xã, một học trò của ông đã bỏ học từ năm lớp 7 để theo đám du côn trong vùng, và sau này thường xuyên bắt ông ngối viết kiểm điểm.

II.
Hôm nay tôi đọc trên báo Tuổi Trẻ bài “Sự Lựa Chọn Của Người Trí Thức”, nói về Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức nổi tiếng ở miền Nam đi theo Cộng sản và đã từng giữ chức Chủ tịch Mặt Trận Giải phóng Miền Nam Viện nam. Luật sư Thọ là người gốc Công Giáo và hoàn toàn trưởng thành trong nền giáo dục Pháp.

Ở miền Nam, ông đã có tất cả, từ địa vị, vật chất, danh dự, và sự kính trọng. Thế nhưng ông đã bỏ tất cả để đi theo cộng sản. Sau năm 1975, gần như người ta không còn nghe đến tên ông. Tôi đã từng đến nhà ông trên đường Phạm Ngọc Thạch trong một dịp lễ đặc biệt, và đúng như lời đồn đãi, từ người gác cửa, lái xe, cho đến người y tá của ông, đều do cơ quan “bảo vệ nội bộ” của Đảng cung cấp.

Người Sài Gòn kể rằng, trước lúc chết, ông có nguyện vọng được xưng tội với một linh mục. Vì mục đích nhân đạo, chính quyền đã đồng ý với điều kiện là người “thư ký” của ông phải đứng bên cạnh cuộc xưng tội giữa ông với ông linh mục nọ.

III.
Thế hệ của tôi đã học chữ quốc ngữ qua dòng nhạc phản chiến đầy hào khí Lạc Hồng của Trịnh Công Sơn. Khi tôi vào đại học, được nghe lời truyền tụng về huyền thoại chống chiến tranh, được cho nhìn những tấm ảnh nhạc sĩ họ Trịnh ốm yếu, với đôi kiếng cận dày, ôm cây dàn ngạo nghễ hát trên một sân khấu phản chiến, giữa Trung tâm Sài Gòn với một “lực lượng cảnh sát và mật thám” dày đặc của một chính quyền Miên Nam “tay sai, tàn bạo, thối nát”; Vì thế, hơn cả sự ngưỡng mộ tài hoa của một nhạc sĩ, trong lòng tôi còn dành cho họ Trịnh sự kính trọng đối với một chí sĩ bất khuất trước cường quyền. Nhưng sau này, khi đi làm và có cơ hội tiếp xúc với ông, tôi hoàn toàn thất vọng. Trịnh Công Sơn rất sợ bị công an “thăm hỏi”. Dù là một người xa lánh với những kẻ quyền lực, Trịnh công Sơn luôn treo tấm hình ông chụp chung với nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt ở phòng khách. Ông đã nhiều lần bày tỏ với bạn bè một ý định ngây thơ và hết sức tội nghiệp là tấm ảnh đó có thể giúp ông tránh bị công an chụp mũ.

Một nhạc sĩ hàng đầu của một dân tộc, từng hiên ngang công khai thách thức chính quyền miền Nam, đã trở nên hèn hạ đến mức phải dùng một tấm ảnh để đánh lừa nỗi sợ hãi của chính mình. Trước khi ông mất vài năm, tôi đã vài lần gặp ông trong các hội nghị tổng kết của một số cơ quan tổ chức văn hoá tại Sài Gòn. Trong tất cả các hội nghị đó, những hàng ghế danh dự được dành cho các cán bộ văn hoá, tuyên huấn kể cả cấp quận huyện. Những cán bộ này phát biểu, chúc tụng nhau nhưng không ai để ý đến ông. Ông ngồi lọt thỏm ở các hàng ghế sau với một vài người bạn.

Tôi xin lỗi vong hồn ông để nói điều này: Cộng sản đã dành cho nhạc sĩ huyền thoại Trịnh Công sơn vị trí của một trong số hàng ngàn “CÔNG NHÂN SẢN XUẤT NHẠC…” không hơn không kém. Thân phận của ông trong hai mươi sáu năm sau 1975, chỉ trừ khi ông chết, còn kém hơn một cán bộ phòng văn hoá quận 1.

IV.
Tôi đến Mỹ trễ sau khi miền Nam đã được giải phóng hơn 20 năm. Ở Mỹ, tôi có hai người bạn. Gọi là bạn nhưng họ đều lớn hơn tôi trên 10 tuổi, và cả hai là người miền Nam, đã đến Mỹ từ trước 30/4/1975. Cả hai đều có bằng tiến sĩ và đều có địa vị cao trong xã hội Mỹ. Hai người bạn tôi nằm trong số những người thường hay về Việt Nam và luôn ao ước cơ hội để giúp đỡ và phụng sự quê hương Việt Nam. Điều đáng nói là, hai người bạn tôi luôn chỉ trích xã hội Mỹ, hệ thống chính trị Mỹ, và các chính trị gia Mỹ. Nói về bất cứ lĩnh vực nào, họ cũng đều tìm ra cái xấu, cái đáng phê phán của nước Mỹ. Ngược lại, dường như bạn tôi tỏ ra dễ dãi hơn đối với tình trạng ở Việt Nam và dường như không có ấn tượng gì lớn đối với tình trạng tham nhũng – thối nát trong xã hội cộng sản Việt Nam hiện nay.

Có lần bạn tôi nói rằng, ông mới đến Mỹ mà sao ông chống cộng hơn tôi? Vì sao?

Tôi đã bỏ Việt Nam ra đi khi tôi ở lứa tuổi đã quá trễ để học một ngôn ngữ mới, để tạo lập một nghề nghiệp mới, để có một mối quan hệ xã hội mới, và để có thể làm quen với khí hậu ôn đới. Thế nhưng tôi đã phải ra đi vì tâm trí tôi không thể chịu đựng nỗi sự hành hạ của những điều bất công, thối nát, lừa dối, và tàn bạo đang xảy ra từng ngày xung quanh tôi.

Một buổi sáng, tôi thấy anh xe ôm đầu ngõ nhà tôi trên đường Lê Văn Sĩ, quận 3 dường như đang khóc. Tôi hỏi anh, và anh nói rằng chiếc xe honda cũ của anh đã bị công an thu giữ, không biết làm cách nào để xin lại. Lý do là vì xe honda ôm chỉ đựợc chở 1 người khách nhưng hôm qua, anh đã chở một người khách – môt phụ nữ có đứa con 5 tuổi. Tất nhiên, đứa bé 5 tuổi không thể ngồi một mình sau xe ôm được. Nhưng “luật pháp” không phân biệt lớn nhỏ.

Anh xe ôm nói, vì đó là chuyến xe đầu tiên trong ngày, nên anh không có đủ 50 ngàn để “dúi” cho anh cảnh sát giao thông, và vì thế, chiếc xe của anh đã bị tạm giữ. Anh xe ôm này có ba đứa con. Chỉ riêng phải đóng “sổ vàng” để được giữ chỗ tại trường công lập gần nhà, mỗi đứa cần có 2 triệu, chưa kể tiền học thêm hàng tháng… Trung bình mỗi ngày anh kiếm được 100 ngàn đồng bằng nghề xe ôm. Vợ anh bán bánh canh trong hẽm mỗi ngày kiếm được khoảng 50 ngàn. Thu nhập của hai vợ chông cộng lại tính ra chưa đủ tiền trường cho ba đứa con, chưa nói đến những bất trắc thường xuyên xảy ra như vụ chiếc xe bị tạm giữ. Ở Việt Nam, cứ 10 người bạn gặp, sẽ có 7 người có hoàn cảnh như anh xe ôm nói trên. Còn anh bạn tôi thì luôn chỉ trích nước Mỹ…

Tôi đã sống ở Mỹ hơn 5 năm, đã có ít nhất hai mươi lần liên hệ với các cơ quan chính quyền. Tôi chưa hề bắt gặp một công chức nào thiếu nhã nhặn và lịch sự với tôi ngay cả khi tôi đến để xin các khoản trợ cấp. Không ai trong số hàng chục gia đình bà con và quen biết của tôi đã sống tại Mỹ hơn 20 năm phàn nàn về một lần phải bị làm khó dễ hay phải lo lót cho công chức Mỹ. Ở Mỹ, không nói đến chương trình phổ thông hoàn toàn miễn phí, mà bất cứ ai cũng có đủ cơ hội để đi học đại học. Gần như 100% người Việt Nam di cư đến Mỹ đều đủ tiêu chuẩn hưởng trợ cấp giáo dục (financial aid). Do đó mà đã có tới hơn 45% người Việt đến Mỹ dưới 20 tuổi học xong đại học hoặc trên đại học. (California, Department of Education, 2004-Survey).

Ở Việt Nam hiện nay, không dám nói đến bậc đại học, ngay cả vào lớp một thôi, chỉ riêng tiền đóng “sổ vàng” trung bình là 1 triệu đồng cho một học sinh, khoản tiền này không được qui định bởi luật pháp nhưng không phi pháp… Khoản tiền đóng “sổ vàng” này, như báo Tuổi Trẻ từng đưa tin, có trường lên tới 5 triệu đồng cho một quốc gia có mức thu nhập trên đầu người vào khoảng 7 triệu rưỡi. Nhưng đó chỉ mới là khoản nhập môn. Tổng các khoản chi học thêm, qùa cáp thầy cô giáo, và phương tiện học hành của mỗi học sinh chiếm tương đương với ít nhất là 1/3 số thu nhập của anh xe ôm kia. Ở bất cứ phương diện nào, bạn cũng có thể thấy một khoảng cách rõ ràng giữa hai xã hội. Dì của tôi, năm nay trên 60 tuổi đang nhận chăm sóc một cháu bé 1 tuổi tại Santa Cruze (CA) cho vợ chồng một kỹ sư người Việt. Hàng tuần dì lái cũng một chiếc Toyota 2004 đi làm 5 ngày, mỗi tháng dì lãnh 1000 dollars tiền lương, chưa kể ăn uống và quà cáp trong các dịp lễ. Mức thu nhập của dì tôi tương đương với mức lương trung bình của 4 kỹ sư điện toán giỏi tại Sài gòn hiện nay.

Truyền thông Mỹ hôm nay (18/12/2005) xôn xao đưa những chỉ trích và đánh giá gay gắt về việc Tổng thống Bush đã có lần cho phép cơ quan an ninh quốc gia theo dõi điện thoại và email của nghi phạm khủng bố trong nước Mỹ. Cũng trong thời gian này, ở Việt Nam xảy ra một chuyện ngược lại: Công an tống giam biệt tích hai anh em nhà ở đường Nguyễn Kiệm vì tội tham gia diễn đàn Paltalk nhưng không có một dòng tin nào xuất hiện trên 500 tờ báo hiện có tại Việt Nam.

Chỉ cần nhìn sơ qua, bạn cũng có thể thấy, những điều mà bạn chưa hài lòng ở nước Mỹ là những điều mà đồng bào của bạn dù nằm mơ cũng không thấy được. Chỉ cần lướt qua vài hình ảnh và số liệu, bạn cũng có thể thấy cái bất công trong xã hội Mỹ này chỉ bằng một viên bi trong một giỏ bi bất công dưới chế độ cộng sản.

Ở trên trái đất này, không hề có thiên đường. Điều mà anh và tôi tìm kiếm không phải là một xã hội hòan hảo, mà là một xã hội có ít sự bất công hơn, có ít sự lừa dối hơn, và có ít cái xấu hơn. Trong ý nghĩa này, thì nuớc Mỹ là một mô hình tốt hơn vạn lần so với cái xã hội Việt Nam cộng sản, nơi mà sự ác, sự bất công, và sự lừa dối đang thống trị xã hội. Quí vị “Thành phần thứ ba” giống như những đứa bé nhà giàu đang sống êm ấm trong một lâu đài nhưng luôn nhìn qua cửa sổ, mơ tưởng được làm một chú bé mò cua trên cánh đồng đàng xa, dưới bầu trời đầy nắng, và bên cạnh một khu rừng nhiệt đới bí ẩn…

Nhưng khi nào quí vị trở thành chú bé nhà nghèo kia, thì quí vị sẽ thấy công việc mò cua hoàn toàn không có mảy may của sự lãng mạn, nhưng là một sự khốn khó đến cùng cực vì lạnh, vì đói, vì nắng, và những những cơn sốt nghiệt
ngã do cánh rừng kia mang lại. Tóm lại, “Thành phần thứ ba” là những người có thừa nhiệt huyết và dũng khí để đấu tranh quyết liệt chống những chính quyền của những xã hội dân chủ nhưng thiếu sự can đãm tối thiểu để bảo vệ một sự công bằng căn bản nhất dưới những chế độ độc tài. Và như thế, dù không chủ ý, “thành phần thứ ba” đã bắc một nhịp cầu cho các chế độ độc tài như cộng sản Việt Nam

March 4, 2008

Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968)

  

Tàn sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968) (Phần I)

Trần Gia Phụng
I. Tình hình chung

Biến cố Tết Mậu Thân (1968) được Cộng Sản Việt Nam (CSVN) gọi là “Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” (General Offensive and General Uprising). “Tổng công kích” là một từ ngữ trong lý thuyết cách mạng cộng sản Trung Hoa, còn “tổng khởi nghĩa” là từ ngữ Việt Nam chỉ những cuộc nổi dậy chống ngoại xâm trong lịch sử, và đã được Việt Minh sử dụng để gọi việc chiếm chính quyền của họ vào năm 1945.

Dầu chịu ảnh hưởng lý thuyết lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao Trạch Đông (1893-1976), nhưng trước tình hình biến chuyển mau lẹ vào giữa thập niên 60 ở Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức Nam Việt, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt muốn đốt giai đoạn, thay đổi chiến thuật, quyết tổng công kích, tổng khởi nghĩa ở các thành phố miền Nam, để thực hiện những tính toán chiến lược trong công cuộc xâm lăng miền Nam..

Việc Nikita Khrushchev (1894-1971) bị đảo chánh ở Liên Xô ngày 15/10/1964 là một biến cố rất thuận lợi cho VNDCCH. Khrushchev chủ trương hòa dịu với các nước tây phương và sống chung hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau. Chính phủ Liên Xô dưới thời Khrushchev, vào đầu năm 1957, đã đưa ra đề nghị hai miền Bắc và Nam Việt Nam cùng vào Liên Hiệp Quốc như hai nước riêng biệt, nhưng bị nhà cầm quyền VNDCCH quyết liệt phản đối.

Trong khi đó, VNDCCH quyết dùng võ lực để xâm chiếm VNCH. Khi biến cố Maddox xảy ra trong vịnh Bắc Việt vào tháng 8-1964, Hoa Kỳ leo thang chiến tranh, oanh tạc Bắc Việt.(1) Ban lãnh đạo mới của Liên Xô gồm tam đầu chế Leonid Brezhnev (1906-1982), Alexei Kosygin (1904-1980) và Nicolay Podgorny (1903-1983) muốn lôi kéo Bắc Việt về phía mình trong cuộc tranh chấp giữa Liên Xô và Trung Hoa, liền tuyên bố sẵn sàng giúp đỡ Bắc Việt trong trường hợp Bắc Việt bị Hoa Kỳ tấn công. Tháng 2-1965, thủ tướng Liên Xô Kosygin viếng thăm Hà Nội.

Để đáp lễ và tiếp tục cuộc thương thảo, tháng 4-1965, Lê Duẩn (1907-1986), bí thư thứ nhất đảng Lao Động Việt Nam (LĐVN) cầm đầu phái đoàn sang Moscow. Trong dịp nầy, một thỏa ước viện trợ đã được ký kết; đồng thời Liên Xô đồng ý cho một tổ chức do đảng LĐVN lập ra để điều khiển chiến tranh ở miền Nam là Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) đặt văn phòng liên lạc tại Moscow.(2)

Tuy chưa chính thức thừa nhận về mặt ngoại giao theo công pháp quốc tế, nhưng việc Liên Xô chấp thuận cho MTDTGPMNVN đặt văn phòng liên lạc tại Moscow, có nghĩa là Liên Xô xác nhận sự hiện diện của mặt trận nầy tại miền Nam Việt Nam, khởi đầu cho việc tăng cường viện trợ quân sự cho Bắc Việt cũng như MTDTGPMNVN theo chủ trương can thiệp mới của Liên Xô, mà sau nầy các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev. Từ đó, vũ khí Liên Xô được đưa vào chiến trường miền Nam để trang bị cho lực lượng cộng sản. Nhiều quan sát viên ghi nhận rằng các loại vũ khí nầy tối tân hơn các loại vũ khí còn sót lại sau thế chiến thứ hai (1939-1945), mà Hoa Kỳ trang bị cho quân lực VNCH cho đến năm 1968.

Về phía VNCH, từ cuối năm 1963, tình hình chính trị xáo trộn mạnh sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm (1901-1963) bị sát hại ngày 02/11/1963, cùng với sự hủy bỏ luôn hiến pháp ngày 26/10/1956 do tổng thống Diệm ban hành. Điều nầy gây ảnh hưởng chính trị tai hại là chấm dứt tính cách hợp hiến hợp pháp liên tục của chính quyền dân sự, tức nền Đệ nhất Cộng Hòa, ở miền Nam Việt Nam từ khi đất nước bị chia hai sau 1954, và gây khoảng trống hiến pháp, đưa đến nhiều rối loạn về chính trị do sự cầm quyền của giới quân sự, vì giới nầy không phải do dân chúng bầu ra, nên không thể đại diện cho dân chúng được.

Các tướng lãnh lật đổ ông Diệm lại không đủ khả năng quản lý đất nước, làm cho chính sự càng ngày càng rối ren. Trung tướng Dương Văn Minh (1916-2001) cầm quyền chẳng được bao lâu thì bị trung tướng Nguyễn Khánh thay thế ngày 29/01/1964. Ông Khánh gặp nhiều chống đối, nhất là từ sau khi ông tuyên bố Hiến chương ngày 16/08/1964, thường được gọi là Hiến chương Vũng Tàu. Những cuộc biểu tình dữ dội, nhất là của giới Phật giáo, khiến ông Khánh phải hủy bỏ hiến chương nầy ngày 25/08/1964. Những âm mưu đảo chánh liên tiếp diễn ra, trong đó quan trọng nhất là ngày 13/09/1964, tướng Lâm Văn Phát và tướng Dương Văn Đức đem quân về thủ đô Sài Gòn “biểu dương lực lượng” rồi rút lui, và ngày 19-2-1965, tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo (?-1965) đảo chánh, nhưng bị dẹp yên ngay.

Trong thời gian nầy, biểu tình xảy ra liên tục trên toàn quốc do các phe phái chính trị, các phong trào đòi hỏi hòa bình, và nhất là các giáo phái tổ chức. Bàn thờ Phật cũng được đưa “xuống đường” tại các thành phố lớn ở miền Trung như Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào tháng 06/1966.

Tình hình chính trị ổn định lại dần dần với việc bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11/09/1966. Bản hiến pháp mới được ban hành ngày 01/04/1967, hình thành nền Đệ nhị Cộng Hòa. Cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên nền Đệ nhị Cộng Hòa ngày 03/09/1967 đưa đến việc liên danh các tướng Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ đắc cử tổng thống và phó tổng thống, chấm dứt giai đoạn khủng hoảng chính trị kéo dài từ sau ngày tổng thống Diệm bị sát hại, nhưng lại đưa đến sự chuyên chính của giới quân nhân.

Điều làm cho Bắc Việt bất ngờ nhất là sau biến cố chiến hạm Maddox bị tấn công ở vịnh Bắc Việt hai ngày 2 và 04/08/1964, lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (The Gulf of Tonkin Resolution) ngày 07/08/1964 hoàn toàn ủng hộ tổng thống Lyndon Johnson (1908-1973) trong việc mở rộng chiến tranh Việt Nam.

Mỹ đánh bom khu chứa xăng dầu tại Hà Nội (30/06/1966)
Nguồn: wikipedia.org


Từ đó, Hoa Kỳ đưa quân tham chiến trực tiếp vào Việt Nam, và quân số Hoa Kỳ tăng gia nhanh chóng, từ khoảng trên 20,000 cố vấn và chuyên viên cuối năm 1964, lên đến 486,000 quân cuối năm 1967.(3) Đó là chưa kể quân số của các nước Đồng minh như Đại Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, Úc Đại Lợi lên đến vài chục ngàn người. Về phía VNCH, quân số cũng gia tăng nhanh chóng để đáp ứng tình hình chiến sự càng ngày càng gia tăng.(4) Chiến tranh lan rộng ra Bắc với những phi vụ oanh tạc các cơ sở quân sự, những trục lộ giao thông quan trọng, kể cả những thành phố lớn. Nhà cầm quyền Bắc Việt rất lo ngại quân đội Hoa Kỳ và VNCH đổ bộ vùng bờ biển hoặc tấn công Hà Nội. Một thủ đô bí mật được thiết lập đâu đó trong vùng rừng núi Bắc Việt để sử dụng trong trường hợp Hà Nội và những trọng điểm Bắc Việt bị không quân tấn công hoặc tiêu hủy.(5)

Ở trong Nam, lợi dụng sự bất ổn chính trị của VNCH kéo dài từ sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ năm 1963 cho đến 1966, MTDTGPMNVN đã phát triển mạnh mẽ được một thời gian. Khi VNCH trên đường ổn định trở lại dần dần từ khi Hoa Kỳ đưa quân tham gia trực tiếp chiến tranh Việt Nam, nhất là từ khi bầu cử Quốc hội Lập hiến năm 1966, MTDTGPMNVN bị suy thoái trở lại.

Một hiện tượng xã hội ít được chú ý là do chiến tranh càng ngày càng gia tăng cường độ, vùng nông thôn xôi đậu bất ổn, nên mỗi năm có khoảng từ 500,000 đến 1 triệu dân nông thôn tránh bom đạn, bỏ ra thành thị tỵ nạn, sinh sống dưới sự kiểm soát của chính quyền VNCH (Don Oberdorfer, sđd.53). Điều nầy về lâu về dài gây nhiều thiệt hại cho du kích cộng sản. Cộng sản không có dân chúng để trà trộn trốn tránh, cũng không có dân chúng để tiếp tế nuôi ăn, lại thiếu thanh thiếu niên để bắt lính, và một số cán binh cộng sản bỏ về thành theo gia đình hoặc quy thuận chính phủ Quốc gia theo chính sách chiêu hồi, làm cho bộ đội du kích cộng sản càng ngày càng hao hụt.

Lúc đó, giới lãnh đạo Bắc Việt nhận định rằng sau ba năm xáo trộn, với nhiều cuộc biểu tình khắp các thành phố miền Nam, tình hình đủ chín mùi để có thể kêu gọi dân chúng tổng khởi nghĩa như tháng 8-1945 ở Hà Nội. Nếu để chính quyền VNCH ổn cố trở lại, thì càng ngày càng bất lợi cho MTDTGPMNVN, cho nên Bắc Việt quyết định tổ chức tổng công kích, bất ngờ đánh chiếm các thành thị miền Nam, rồi kêu gọi dân chúng nổi lên tổng khởi nghĩa.

Cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa do cộng sản Hà Nội chủ trương nhắm các mục đích sau:

– Chiếm chính quyền, phá huỷ hệ thống chính quyền VNCH, tạo bất ổn khó khăn cho VNCH.
– Trực diện đối đầu với Hoa Kỳ, CSVN ước tính khó có thể thắng được quân đội Hoa Kỳ, trang bị vũ khí tối tân và hùng hậu hơn quân đội Pháp trước đây rất nhiều. Do đó, CSVN cần gây tiếng vang lớn trên thế giới và tại Hoa Kỳ, để lung lạc và làm chia rẽ dân chúng Hoa Kỳ. Năm 1968 là năm tranh cử tổng thống Hoa Kỳ, tình hình chính trị Hoa Kỳ rất nhạy cảm. Dân chúng Hoa Kỳ bị kích động vì cuộc tổng công kích, sẽ đẩy mạnh phong trào hòa bình và phản chiến tại Hoa Kỳ. Một khi hậu phương Hoa Kỳ bất ổn thì quân sĩ Hoa Kỳ ở tiền tuyến sẽ giảm ý chí chiến đấu. Chỉ có thế mới mong Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam.
– Sửa soạn một thế mạnh để nói chuyện trên bàn hội nghị, vì lúc đó các dàn xếp quốc tế đã sẵn sàng cho cuộc hòa đàm giữa các bên lâm chiến. (Trên thực tế, cuộc hòa đàm bắt đầu vào tháng 05/1968.)
– Đưa chiến tranh vào thành phố sẽ làm cho dân nông thôn chạy ra thành thị quay trở về nông thôn, vì từ nay thành thị cũng bị tấn công mất an ninh như nông thôn, đồng thời chận đứng làn sóng dân chúng di chuyển từ nông thôn ra thành thị, gỡ rối cho hạ tầng cơ sở ở nông thôn của MTDTGPMNVN;
– Chận đứng việc hồi chánh của một số phần tử trong MTDTGPMNVN, vốn không phải là đảng viên cộng sản, mà chỉ là những người bất mãn với chế độ Ngô Đình Diệm, muốn quay trở lại với VNCH khi ông Diệm bị lật đổ. Ngay sau biến cố ngày 2-11-1963, đáng lẽ những người nầy tìm về phía VNCH, nhưng vì Sài Gòn bị xáo trộn liên tục, làm gián đoạn các đường liên lạc, khiến họ chưa hồi chánh kịp.
– Nếu cuộc tổng công kích thất bại, và chủ lực của MTDTGPMNVN bị tiêu diệt, đối với đảng LĐ ở Hà Nội cũng là điều rất có lợi, vì lý do sau đây: Khi mới thành lập, MTDTGPMNVN gồm đa số là đảng viên cộng sản miền Nam và những người bất mãn chế độ miền Nam bỏ theo Mặt trận. Đảng LĐ ngoài Bắc không mấy tin tưởng va không kiểm soát được cả hai thành phần nầy. Nếu chủ lực MTDTGPMNVN bị VNCH tiêu diệt, thì đây sẽ là cơ hội tốt để đảng LĐ gởi người từ miền Bắc vào thay thế, nắm gọn và điều khiển hẳn toàn bộ MTDTGPMNVN, mà không bị tranh chấp nội bộ gay go.(6)

Với những tính toán trên, dầu cuộc tổng công kích thắng hay bại, đàng nào đảng LĐ ở Hà Nội cũng đều có lợi, nên họ đã không ngần ngại hy sinh lá bài MTDTGPMNVN trong mưu đồ thôn tính VNCH. (Về sau, ngay khi cưỡng chiếm được miền Nam năm 1975, Hà Nội liền loại bỏ ngay nhóm lãnh đạo MTDTGPMNVN và giải thể Mặt trận nầy một năm sau đó.)

II. Những biến chuyển trước Tết Mậu Thân

Nguyễn Chí Thanh, tên của Hồ Chí Minh đặt cho Nguyễn Vịnh, và Hồ Chí Minh (Xã Đại Nghĩa, Hà Đông, 1961)
Nguồn: thumbs.imagekind.com


Vào đầu tháng 07/1967, tại Hà Nội, các cuộc họp quan trọng của Bộ chính trị và Quân uỷ Trung ương đảng LĐ, đã duyệt y kế hoạch phát động cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân (1968) (Don Oberdorfer, sđd.54). Trong thời gian nầy, tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967) chết ngày 6-7-1967, Võ Nguyên Giáp thay Nguyễn Chí Thanh tiếp tục thảo kế hoạch tấn công. Phạm Hùng (1912-1988) được gởi vào Nam để thay thế Nguyễn Chí Thanh, giữ chức bí thư Trung ương cục miền Nam, điều khiển cuộc chiến.(7)

Tại Bắc Việt, giữa năm 1967, đảng LĐ ra tay lần chót, lần lượt bắt giam tất cả những thành phần theo chủ trương hòa dịu giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau của Khrushchev, tức những thành phần không đồng ý với cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam. Lãnh đạo đảng LĐ lúc đó gán cho họ tội danh là thành phần “xét lại”, âm mưu “chống đảng”. Đó là các ông Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang, và khoảng 40 nhân vật khác, trong đó có cả trí thức, văn nghệ sĩ.

Nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Liên Xô, Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng LĐ, cùng hai uỷ viên Bộ chính trị là Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Quốc phòng và Nguyễn Duy Trinh, bộ trưởng Ngoại giao lên đường vào cuối tháng 10-1967 qua Moscow dự lễ. Trên đường đi, phái đoàn nầy đã ghé qua Bắc Kinh xin quân viện, trình bày kế hoạch mới theo quyết định của Bộ chính trị VNDCCH vào tháng 7, đã được Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hứa gởi qua Bắc Việt 300,000 lính phòng không và công binh,(Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 32.) cung cấp hoả tiễn 107 ly, 240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc men. Tại Moscow, Liên Xô chấp thuận cho Bắc Việt thêm đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực cơ Mig 21 và các loại vũ khí nặng khác.(8) Cũng trong dịp nầy, để chứng tỏ một lần nữa tình thân thiện Xô Việt, những nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng Hồ Chí Minh huân chương Lenin.(9)

Từ khi chiến tranh Việt Nam mở rộng, Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam, dùng không quân tấn công Bắc Việt, nhiều chiến dịch ngoại giao khắp nơi trên thế giới tìm cách chấm dứt tranh chấp. Vào năm 1967, Bắc Việt cho biết chỉ thương thuyết khi Hoa Kỳ ngưng ném bom vô điều kiện Bắc Việt. Hoa Kỳ trả lời sẵn sàng ngưng ném bom với điều kiện Bắc Việt không được lợi dụng thời gian ngưng ném bom để xâm nhập quân đội vào miền Nam Việt Nam.

Trong khi việc ngoại giao còn là quả bóng thăm dò qua lại giữa các bên, thì ngày 17/11/1967, nhâ n dịp năm hết Tết đến, MTDTGPMNVN đưa ra đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1967, 3 ngày lễ Tết dương lịch năm 1968 và 7 ngày Tết âm lịch Mậu Thân (Don Oberdorfer, sđd. 70). Chính phủ VNCH ra thông báo ngày 15/12/1967 sẽ hưu chiến 24 giờ trong dịp lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch, hưu chiến 48 giờ trong dịp Tết âm lịch (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. 342).

Để làm lạc hướng dư luận và sự tính toán của các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như VNCH, cộng sản dịu giọng vào đầu năm 1968. Vào dịp Tết dương lịch 1968, bộ trưởng Ngoại giao Bắc Việt là Nguyễn Duy Trinh tuyên bố muốn mở các cuộc hòa đàm và tiếp xúc mật với Hoa Kỳ. Thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng (1906-2000) cũng ngỏ ý sẵn sàng hòa đàm nếu Mỹ ngưng ném bom, và ông Đồng còn nhờ một viên đại diện Romania làm trung gian dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt.(10) Hà Nội loan báo sẽ thả ba tù binh Hoa Kỳ vì lý do nhân đạo để đáp ứng những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 17).

Tại Bắc Việt, chính phủ VNDCCH ra Quyết định số 121/ CP ngày 08/08/1967 thay đổi âm lịch để Bắc Việt ăn Tết trước Nam Việt một ngày, và thông báo khuyên dân chúng nên ăn Tết “vui tươi nhưng tiết kiệm, bình thường, không rườm rà, lành mạnh phù hợp với hoàn cảnh thời chiến.” (Don Oberdorfer, sđd.72.) Việc định thay đổi âm lịch vào thời điểm nầy có những tính toán chính trị và quân sự riêng của Bắc Việt.

Tại Nam Việt, từ ngày 01/11/1967 diễn ra trận đánh đẵm máu kéo dài nhiều ngày tại Lộc Ninh, thuộc tỉnh Phước Long. Đến gần Tết âm lịch, Việt Cộng tung quân tấn công các cứ điểm quân sự ở Cao nguyên Trung phần, và đưa ba sư đoàn chính quy là 325C, 304 và 308 bao vây và pháo kích dữ dội Khe Sanh (Quảng Trị), gần vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc, từ ngày 20/01/1968. Các nhà lãnh đạo VNCH, Hoa Kỳ, và cả thế giới nữa, rất quan tâm đến tình hình Khe Sanh, và lo lắng một cuộc đọ sức lớn lao sắp bùng nổ tại đây giữa hai bên như một Điện Biên Phủ mới.(11)

Trong khi đó, Việt Cộng âm thầm tiếp tục chuẩn bị các cuộc tấn công vào thành phố. Ngày 2-1-1968, tại Cao nguyên Trung phần, quân đội Hoa Kỳ tịch thu được một tài liệu có đầy đủ kế hoạch cộng sản tấn công Pleiku và Kontum. Ngày 15/01, tại Khe Sanh, một sĩ quan cộng sản hồi chánh cho biết sẽ có chiến dịch lớn tại vùng giới tuyến.

Với nhiều tin tức tình báo khác, Bộ tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ra lệnh báo động và thông báo cho phía VNCH biết, đồng thời yêu cầu VNCH hủy bỏ lệnh hưu chiến nhân dịp Tết nguyên đán, nhưng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001) và đại tướng Cao Văn Viên (1921-2008), tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, chỉ đồng ý bãi bỏ hưu chiến tại Vùng 1 chiến thuật, và rút bớt 24 tiếng đồng hồ hưu chiến trên toàn quốc.(12)

Một dấu hiệu nữa về việc Việt Cộng sẽ tổng tấn công trong dịp Tết là tại Bình Định (thuộc Quân đoàn 2 và Vùng 2 chiến thuật VNCH), nhà cầm quyền bắt được trước sau 10 cán bộ cộng sản với những tài liệu quan trọng ngày 29-1-1968 (30 Tết), trong đó có cả máy ghi âm sẵn lời phát thanh kêu gọi dân chúng tổng khởi nghĩa. Tỉnh trưởng Bình Định đã báo cáo vụ việc lên thượng cấp, nhưng bộ Tư lệnh Vùng 2 không mấy quan tâm. Vị tướng tư lệnh vùng nầy là Vĩnh Lộc lại bỏ về Sài Gòn ăn Tết.

Lúc đó, dư luận chung ở trong cũng như ngoài nước tin tưởng sự hiện diện của gần 500,000 quân Mỹ tại Việt Nam sẽ bảo đảm an toàn cho VNCH. Hơn nữa, do cộng sản vừa tuyên truyền vừa chuyển quân đe dọa Khe Sanh, nên mọi người chú tâm đến trận chiến ở đây, mà ít chú ý đến những diễn tiến chung quanh các thành phố rộn rịp khác thường trong những ngày trước Tết.

Về phía Hà Nội, sau sáu tháng điều nghiên, chuẩn bị, ngày 21/01/1968, Bộ chính trị đảng LĐ họp lần chót quyết định tổng công kích đêm Giao thừa Tết Mậu Thân tại miền Nam (đêm 29 rạng 30-1-1968). Họ đã dùng đài phát thanh Hà Nội ra lệnh tổng công kích bằng bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh đọc vào tối Giao thừa ở ngoài Bắc, tức tối 28/01/1968. Hà Nội đã sửa lại âm lịch, nên Tết Mậu Thân Bắc Việt trước Nam Việt 24 giờ đồng hồ. Nhờ vậy, lệnh tổng công kích của Hồ Chí Minh đến khắp các đơn vị du kích CS vào ngày 30 tháng Chạp ở miền Nam, đủ thời gian cho các đơn vị du kích CS xuất quân vào ngày Mồng Một Tết. Sự việc nầy cho thấy quyết định đổi âm lịch ở ngoài Bắc của CSVN nhắm mục đích rõ ràng cho cuộc tổng công kích ở miền Nam. Nguyên văn bài thơ làm hiệu lệnh tấn công của Hồ Chí Minh như sau:

“Mừng xuân 1968
Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp mọi nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta.”
(13)

Lúc đó, dù tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh giảm hưu chiến còn 24 giờ trên toàn quốc, và bãi bỏ hưu chiến ở vùng Vùng 1 Chiến thuật, nhưng nói chung, mọi nơi đều nô nức đón Tết, nên việc canh phòng có phần lơ là và quả thật cuộc tổng công kích của Việt Cộng là một trận đánh hoàn toàn bất ngờ với dân chúng miền Nam. Theo tác giả James J. Wirtz trong sách The Tet Offensive, Nxb. Cornell University Press, New York, 1991, tr. 28, thì cuộc “Tổng công kích” Tết Mậu Thân là một trong ba biến cố bất ngờ nhất trong cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975.

(Toronto, Canada)

(Còn tiếp)

© DCVOnline


(1) Theo tài liệu Hoa Kỳ, nguyên chiến hạm Maddox của Hoa Kỳ, trong khi đi tuần tra, bị chiến hạm cộng sản tấn công hai lần vào hai ngày 2 và 4-8-1964, trong hải phận quốc tế ở Vịnh Bắc Việt. Bắc Việt và Hoa Kỳ đổ lỗi cho nhau đã gây hấn trước. Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa ra “Quyết nghị vịnh Bắc Việt” (The Gulf of Tonkin Resolution) ngày 7-8-1964 hoàn toàn ủng hộ tổng thống Lyndon B. Johnson (1908-1973) trong việc mở rộng chiến tranh Việt Nam. Ngày 1-12-1964, tổng thống Johnson công bố kế hoạch dội bom Bắc Việt. Như thế là không tuyên chiến, Hoa Kỳ đưa quân tham dự hẳn vào chiến tranh Việt Nam chứ không còn chỉ giữ vai trò cố vấn cho Quân đội VNCH như trước nữa.
(2) Robin Edmonds, Soviet Foreign Policy, The Brezhnev Years, New York: Nxb. Oxford University, 1983, tr. 45.
(3) Đoàn Thêm, 1967 (việc từng ngày), Sài Gòn: Cơ sở xb. Phạm Quang Khai, 1968, tr. 322.
(4) Theo Nguyễn Đình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston: Nxb. Đại Học Đông Nam, 1995, tr. 122, thì cuối năm 1964, quân đội VNCH có 265,000 quân chính quy và 290, 000 địa phương quân. Theo Chính Đạo, Mậu Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa [tái bản lần thứ hai], 1998 (viết tắt: CĐ, MT, sđd.số tr.), thì quân số VNCH tháng 9-1967 là 622,000 quân kể cả địa phương quân, nghĩa quân (tr. 340).
(5) Don Oberdorfer, Tet!, New York: Nxb. Da Capo, 1984, tr. 54. (Viết tắt: Don Oberdorfer, sđd.tr.)
(6) Sau nầy, một số nhân vật trong MTDTGPMNVN công khai tố cáo âm mưu nầy của đảng LĐ, trong đó có bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, một trí thức miền Nam trong Mặt trận.(Chính Đạo, Mặt Thật, sđd. tr. 165.)
(7) James J. Wirtz, The Tet Offensive, New York: Cornell University Press, 1994, tr. 52.
(8) Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, Nam Việt-Nam, 1954-1975, những sự thật chưa hề nhắc tới, Texas: 1990, tr. 77.
(9) Ralph Smith, “Thập niên cuối cùng của cuộc đời Hồ Chí Minh”, Lê Đình Thông dịch, đăng trong tuyển tập nhiều tác giả, Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Paris: Nxb. Nam Á, 1990, tr. 125.
(10) Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, sđd. tt. 77-78.
(11) Johm S. Bowman, The Vietnam War: Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 118.
(12) Chính Đạo, MT. sđd. tt. 31-32, 344. Trước năm 1975, VNCH được chia thành 4 vùng chiến thuật: Vùng 1 CT: từ Quảng Trị vào đến Quảng Ngãi; Vùng 2 CT: từ Bình Định đến Bình Thuận và Cao nguyên từ Kontum xuống tới Di Linh; Vùng 3 CT: từ Biên Hòa tới phiá Bắc sông Tiền; Vùng 4 CT: từ Mỹ Tho tới Cà Mau.
(13) Cảnh Nguyên và Hồ Văn Sơn tuyển chọn, Thơ Hồ Chí Minh, Nxb. Nghệ An, 1995, tr. 170

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4741

Create a free website or blog at WordPress.com.