Diễn đàn Paltalk TiengNoi TuDo Cua NguoiDan VietNam

June 11, 2008

Từ Chết Tới Bị Thương

VI ANH . Việt Báo Thứ Hai, 6/9/2008, 12:02:00 AM

Trước âm mưu CS Hà nội thi hành Nghị quyết 36 của Bộ Chánh Trị Đảng CSVN và hành động tuyên truyền rỉ tai vận động hoà giải hoà họp theo kiểu xin cho để chiêu dụ người Việt Hải Ngoại đem tiền đô la xanh và chất xám kiến thức về phục vụ xây dưng quê hương; trước chủ trương của một số chánh khách nhà nghề của Mỹ lên mặt dạy đời người Mỹ gốc Việt hãy để quá khứ phiá sau hướng về về tương lai phiá trước để che dấu hành động đi đêm với CS Hà nội; thiết nghĩ những tài liệu lịch sử sau đây sẽ giúp cho những người Việt hải ngoại suy gẫm, để đừng nghe mà mắc, đừng tin mà lầm. Thời toàn dân Việt đứng lên lật đổ thực dân Pháp, về chánh trị quân sự, thành phần Quốc Gia ( QG) đông và mạnh hơn thành phần Cộng Sản (CS) nhiều. Nhưng vì độc lập dân tộc, thành phần QG liên minh với thành phần CS trong mặt trận Việt Minh, để rồi Quốc Gia từ chết tới bị thương trong khi CS độc chiếm chánh quyền.

Ô Hoài Sơn người đã từng tham gia phong trào giành độc lập ở Miền Nam, năm nay đã 83 tuổi, vẫn ráng sức già truyền lại những điều mắt thấy tai nghe cho những người trẻ, trong một buổi thuyết trình tại Viện Việt Học. Theo Ong Hoài Sơn nhận xét, so tương quan lực lượng thì QG rất đông, rất lớn và CS rất ít.

Một, về chánh trị, ở Miền Bắc, Quốc Gia có 6 đảng cách mạng: Việt Nam Quốc Dân Đảng ( Vũ hồng Khanh); Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội ( Nguyễn hải Thần); Đại Việt Quốc Xả Đảng ( Nguyễn xuân Hiếu); Đại Việt Quốc Dân Đảng ( Trương tử Anh); Đại Việt Duy Dân Đảng (Lý đông A); Đại Việt Dân Chính Đảng ( Nguyễn tường Tam). Còn ở Miền Nam, cũng có 6 đảng cách mạng: 2 đảng CS là Đông Dương Cộng sản Đảng ( Đệ Tam Quốc Tế); Đệ Tứ Quốc Tế Đảng ( CS đệ tứ) và 4 đảng QG là Việt Nam Phục Quốc Hội ( Cao Đài); Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng ( Hoà Hảo); Thanh Niên Ai Quốc Đoàn ( Đinh khắc Thiệt); Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng ( Hồ văn Ngà).

Chánh khách hoạt động công khai chống Pháp tại Saigon từ thời Pháp Thuộc, trước 1945, thành phần Quốc Gia cũng nhiều hơn CS. Nhưng QG bị CS bằng cách này hay cách khác giết gần hết. CS Đệ tam Quốc tế: Nguyễn văn Tạo, Dưong bạch Mai, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Nguyên, Nguyễn văn Trấn. Cả 5 người CS này còn sống qua thời Pháp thuộc và thời kháng Pháp.Trong khi đó CS Đệ Tứ cũng có 5 ông, nhưng bị giết hết 4 Ong, chỉ còn Ô Hồ Hữu Tường sống đến suốt thời đệ nhị Cộng Hoà VN, làm dân biểu, và chết trong tù cải tạo. Bốn ngưòi CS đệ tứ bị giết là Tạ Thu Thâu ( bị giết tháng 8 năm 1945); Phan văn Hùm ( bị giết cuối 1945); Trần văn Thạch ( bị giết cuối 1945); Huỳnh văn Phương ( bị giết cuối 1945). Ô Hồ chí Minh là CS đệ tam làm cỏ CS đệ tứ không một chút tiếc thương, làm còn sạch hơn Lenine và Staline đối với CS đệ tứ Trosky.

Còn thành phần QG gồm có 10 người, bị giết hết, trừ Ô Trần văn An sống sót và làm chánh trị đến đệ nhị VNCH và di tản sang Pháp mới qua đời gần đây. 9 nhân vật QG ở Miền Nam bị giết đó là Bùi quang Chiêu ( bị giết tháng 9 năm 1945); Dương văn Giáo ( bị giết cuối 1945) Ong và Bà Hồ vĩnh Ký, [ chồng] ( bị giết cuối 1945); Nguyễn thị Sương [ vợ] ( bị giết cuối 1945); Hồ văn Ngà ( bị giết cuối 1945); Lê bá Cang ( bị giết cuối 1945); Lê văn Tình ( bị giết cuối 1945); Nguyễn văn Sâm ( bị ám sát tháng 9 năm 1945); Trần văn Văn bị ám sát năm 1967. Trừ Ô. Trần văn Văn chết thời VNCH cái chết có nhiều giả thuyết, tất cả những nhà cách mạng Quốc Gia bị giết trong khi khởi nghĩa, là do CS bằng nhiều cách khác nhau như CS giao nhiệm vụ cho một đảng viên trung cấp là Bửu Vinh tổ chức ám hại như Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hoà Hảo và Dân Xã Đảng Miền Nam, tại Ba Răn Đốc Vàng (Cao Lãnh).

Hai, về quân sự có 27 đơn vị bộ đội chống Pháp, CS chánh thức chỉ có 2, và QG có 25, mà CS vẫn cướp được chánh quyền kháng chiến. Theo Ô Hoài Sơn vì thành phần QG nhơn đạo không lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện vô đạo đức, trong khi đó CS có sẵn kinh nghiệm sắt máu qua cuộc nổi dậy của Sô viết Nghệ Tĩnh.

Miền Đông Nam bộ ( 1945- 46) có 4 sư đoàn: Đệ nhứt Sư đoàn Kiều công Cung và Trương văn Giàu, Đệ nhị Sư đoàn của Vũ tam Anh, Đệ tam Sư Đoàn của Nguyễn hoà Hiệp; Đệ Tứ Sư Đoàn của Lý huệ Vinh. 5 bộ đội của Bình Xuyên : Bộ đội của Ba Dương, Bộ Đội của Tư Tỵ, Bộ Đội của Năm Hà, Bộ đội của Bảy Viễn; Bộ Đội của Mười Trí. 3 bộ đội của Cao Đài: Bộ đội của Nguyễn văn Thành, Bộ đội của Nguyễn thành Phương, Bộ đội của Trình minh Thế. 1 bộ đội của Đại Việt Quốc Dân Đảng là Bộ đội An Điền của Bùi hữu Phiệt. 1 bộ đội của công nhân, của Hoàng Thọ công nhân sở Ba Son. 1 bộ đội của Việt Minh là Bộ đội Thân Binh Nam bộ của Trịnh ngọc Hiển là lực lượng bảo vệ xứ bộ Nam bộ của CS, đây là một bộ đội chánh thức của CS ở Miền Đông.

Miền Tây Nam bộ có 9 bộ đôị kháng chiến chống Pháp: Phật Giáo Hoà Hảo có 4 bộ đội: Bộ đội của Ô Trần văn Soái, Bộ đội của Ô Lê quang Vinh, Bộ đội của Ô Lâm thành Nguyên, và Bộ Đội của Ô Lâm thành Nguyên. Lực lượng Điển Chủ có 3 bộ đội: Bộ Đội của Ngô hồng Giỏi, Bộ đội của Lâm quamg Phòng; và Bộ đội của Mười Khoát. Lưc lượng nông dân có 1 bộ đội: Bộ đội Đồng văn Cống sau tập kết ra Bắc và Ong Cống được CS phong tướng, sau 1975 về hưu ờ Miền Nam. Cộng sản chánh thức chỉ có một bộ đội ở Miền Tây là Bộ đội của Bửu Vinh ở Đồng Tháp Mưới, sau ra Bắc y chỉ lên đến cán bộ trung cấp vì gốc Hoàng tộc, và sau 1975 trở về Nam làm một cán bộ quèn, là Trưỏng Phòng Pháp chế Sở Giao Thông Vận Tải Saigon, Bửu Vinh không bao giờ dám ló mặt về Miển Tây vì Phật Giáo Hoà Hảo tin Ong là người tổ chức ám hại Đức Huỳnh Giáo Chủ.

Ba, tóm lại về chánh trị cũng như quân sự thời toàn dân đứng lên giành lại độc lập từ tay Thực Dân Pháp, Quốc Gia đông hơn, nhiều hơn, có vũ khí, có dân, có đất, mà CS vẫn có cách giết dần, giết mòn, giành nắm lấy chánh quyền một mình ênh. Thì thời CS, đảng CS lãnh đạo nhà nước, quản lý nhân dân, làm chủ đất nước một cách toàn diện và toàn trị, có bang giao với nhiều nước và có chân trong Liên Hiệp Quốc, thì người QG đừng nói chuyện hoà giải hòa họp, lợi dụng thế chánh quyền để phát triễn tôn giáo, phát triễn đất nước, giúp đỡ đồng bào có tư do, dân chủ. Đối với đảng CS lúc hạ trào cách mạng, chớ đừng nói cao trào cách mạng, ai không theo đảng là lực lượng thù địch, là phản động, phản cách mạng. Danh từ chánh trị của CS không có chữ đối lập, tương nhượng, thoả hiệp với bất cứ lực lượng nào. Theo CS hay bị loại và diệt có thế thôi.

Trung Hoa Quốc Gia do áp lực của Mỹ phải Quốc Cộng liên hiệp để rồi phải bỏ xứ ra đi, may là Đài Loan để bám trụ. Một vài gười Việt ở Uc, ở Tây Au, Mỹ đem bạc triệu về đầu tư ở VN, chưa thấy người nào làm giàu, chưa thấy ai an toàn đem tiền ra khỏi VN được. Một vài cựu chánh khách VNCH tin chánh khách Mỹ thực dụng, lom khom đi VNCS tưởng “chuyển hoá” CS được theo đưòng lối ngoại giao của Bà Rice, tất cả đều bị CS đốt cháy. Lịch sử cho thấy hoà giải hoá họp với CS là từ chết tới bị thương.

VI ANH

June 7, 2008

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản: Phần 2: Nước Mất Lại Còn

Hoàng-văn-Chí – Bản dịch của Mạc-Định

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản  
• Hoàng-văn-Chí

From Colonialism To Communism
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam

• Bản dịch của Mạc-Định

—— o0o ——

PHẦN 2

NƯỚC MẤT LẠI CÒN
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

BÌNH NGÔ ÐẠI CÁO
(1427)

Chương 3

“BÁC HỒ, VỊ CỨU-TINH CỦA DÂN-TỘC”

Nhìn một cách tổng quát thì có thể nói Cách-Mạng Việt-Nam bắt đầu bằng phong trào Quốc-gia và kết thúc với chế-độ Cộng-sản. Trong hai thế-hệ liên tiếp những người Việt-Nam yêu nước đã đấu tranh dành độc-lập quốc-gia. Họ không thành công nhưng họ giữ ngọn lủa cách-mạng không lúc nào tắt hẳn, và những kinh-nghiệm xương máu của họ đã giúp cho Cộng-sản chiến thắng với danh-nghĩa giảI-phóng quốc-gia, sau một thời kỳ hoạt động trong bóng tối tương đối ngắn hơn. So với phe quốc-gia, Cộng-sản ít bị thiệt hại hơn, và đã thành công tương đối dễ dàng vì nhiều lý do. Trước hết là nhờ sự lãnh đạo khôn khéo của Ðệ Tam Quốc-Tế và hai là nhờ lòng quả cảm của các đảng viên Cộng-sản. Hơn nữa, vì chủ nghĩa Mác-xít có tính chất cấp-tiến nên Cộng-sản đã thu hút được những phần tử trí thức có lý-tưởng, đồng thời huy động được đông đảo quần chúng bằng cách hứa hẹn một con đường tắt đưa tớI mức sống cao hơn. Vì tất cả những yếu tố này mà Cộng-sản mỗi ngày một mạnh thêm, trong lúc phong trào quốc gia mỗi ngày một suy yếu dần. Nhưng cuối cùng sở dĩ Cộng-sản đã thành công, phần lớn là nhờ những chiến thuật hết sức biến ảo, lúc thì hiện hình là Cộng-sản, lúc thì tự nhận là Quốc-gia, tùy theo tình thế đổi thay mà vẫn giữ kín mục tiêu chiến luợc bất di bất dịch của mình.

Cộng-sản bắt đầu xuất hiện ở Việt-Nam từ 1925, là năm ông Hồ-Chí-Minh thành lập Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội, tuyển mộ các đảng viên đầu tiên trong nhóm thanh-niên Việt-Nam mà phe quốc-gia đã đưa sang Trung-Hoa. Hai mươi năm sau, khi lên nắm chính quyền ở Hà nội, năm 1945, dướI ngọn cờ Việt-minh, ông Hồ-Chí-Minh vẫn còn đội lốt một nhà lãnh-tụ quốc-gia.

Ðối với Việt-cộng, chiêu bài đấu tranh giai-cấp chỉ mang lại cho họ một chút ảnh hưởng trong quần chúng mà không giúp cho họ đạt được thắng lợi to lớn nào cả. Chỉ những khi họ đội lốt Quốc-gia đấu tranh chống thực-dân Pháp mới đạt được những thắng lợi quan trọng. chứng cớ là trong khoảng thờI gian từ năm 1946 đến năm 1951 đảng Cộng-sản Việt-Nam đã phải tuyên-bố tự giải tán và rút lui vào bóng tối, mặc dầu họ vẫn kiểm soát nhân-dân và quân đội. Ở một nước bán khai như Việt-Nam không có lấy một người xứng danh là tư bản thì dĩ nhiên đấu tranh giai cấp chẳng có lợi mấy cho Cộng-sản, còn giai cấp bán-vô-sản, vì quá ít ỏi nên thực ra chẳng đóng một vai trò nào đáng kể trong sự xuất hiện của chủ nghĩa Cộng-sản. Những yếu-tố sau này đã giúp cho Cộng-sản nhiều nhất chính là những yếu-tố mà trong hoàn cảnh bình thường đáng lẽ đã đưa đến một cuộc cách mạng thuần~túy quốc-gia. Những yếu-tố đó là chế-độ thuộc địa của Pháp, đặt trên nền móng bất bình-đẳng dân-tộc, và tính chất hà lạm của quan lại phong-kiến, gây bất-mãn trong nhân dân và tiêu hủy mọi hy vọng canh-tân và dân chủ hóa chế-độ.

Cộng-sản thành công chỉ vì quốc-gia bất lực không hoàn thành nổi sứ mạng lịch sử của mình. Thẳng thắn mà nói, phong-trào quốc-gia thất bại một phần vì không đủ sức chống lại sự đàn áp của thực-dân, nhưng một phần cũng vì bị Cộng-sản xâm lấn và làm cho tiêu hao lực lượng bằng mọi mánh khoé, và cuối cùng bị tiêu diệt bằng võ lực.

Trong hoàn cảnh ấy lãnh đạo Cộng~sản Việt-Nam không cần phải là một lý-thuyết-gia uyên-thâm mà là một nhà “sách-động chuyên nghiệp” có đủ tài ba để giả dạng làm một lãnh tụ quốc-gia. Năm 1926, đệ-tam Quốc-tế đã giao cho ông Hồ-Chí-Minh công tác khó khăn này, và ông đã thành công vì ông có đủ những đức tính cần thiết để đóng vai trò một lãnh tụ nửa Cộng-sản nửa Quốc-gia.

Nhân-dân Việt-Nam bắt đầu nghe tên Hồ-Chí-Minh từ tháng 8 năm 1945. Ngày 28 tháng 8 năm đó (nghĩa là ngày sau ngày Việt-Minh cướp chính quyền) báo chí Hà-Nội công bố thành phần Chính-phủ Lâm-thời Việt-Nam Dân chủ Cộng-hòa mới thành lập do ông Hồ-Chí-Minh làm Chủ-Tịch. Trước đấy, chưa ai nghe đến tên Hồ-Chí-Minh bao giờ, và mọi người đều thắc mắc về cái tên hơi kỳ lạ đó. Nhiều người cho rằng cái tên đó văn hoa quá không phải là tên thật mà chỉ là tên hiệu.

Dư luận bàn tán về lý lịch ông Hồ-Chí-Minh, nhất là các nhân viên trong tân chính phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng lòng muốn biết rõ ông Hồ là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng phải chờ lâu, vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ-Chí-Minh là tên mới của Nguyễn-Ái-Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra đảng Cộng-sản Việt-Nam”.

Khi nghe tin đồn này, sở Mật-thám Pháp lập tức lục lại hồ sơ để tìm ảnh Nguyễn-Ái-Quốc. Theo hồ-sơ chính thức thì Nguyễn-Ái-Quốc đã chết ở Hồng-kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của Nguyễn-Ái-Quốc với những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà-Nội, sở Mật thám Pháp mới biết họ Nguyễn vẫn còn sống, và sau 10 năm ẩn náu trong bóng tối đã trở lại chính-trường dưới cái tên Hồ-Chí-Minh. Các chuyên viên sở Mật-thám Pháp quyết đoán Hồ-Chí-Minh chính là Nguyễn-Ái-Quốc mặc dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn, trong khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ từ chốI như Cuội, nói rằng mình không phải là Nguyễn-Ái-Quốc. Ngay cả khi tướng Salan đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối cãi.

Riêng đối với người Việt thì ông Hồ không chối thẳng nhưng cứ trả loanh quanh. Thí dụ như trong năm 1946, ông đáp tầu Dumont D’Urville trở về Hải-Phòng sau hội nghị Fontainebleau. Cùng đi trên chuyến tầu này có bốn chuyên gia Việt-Nam mà ông Hồ đón từ Paris về nước. Một trong bốn là ông Võ-quý-huân có hỏi ông Hồ: “Thưa Chủ-tịch, Chủ-tịch có biết ông Nguyễn-Ái-Quốc hiện nay ở đâu không ạ ?” Ông Hồ chỉ mỉm cười và đáp : “Chú tìm ông ấy mà hỏi, tôi đâu biết”.

Không những ông Hồ chỉ giữ kín lý-lịch của ông, mà đến quê quán gốc tích của ông, ông cũng hết sức bí mật. Trong một bản danh sách ứng cử Quốc-Hội năm 1946, ông khai sinh quán ở Hà-tĩnh; nhưng hiện nay ai cũng biết rõ ông sinh quán ở Nghệ-An. Việc này được phơi bầy công khai năm 1958 khi một phái đoàn nhân-viên sứ quán các nước Xã-hội Chủ-nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà-Nội đã thú nhận ông Hồ-Chí-Minh chính là Nguyễn-Ái-Quốc. Tạp chí tranh ảnh Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa, do Việt-Nam Thông Tấn Xã (Bắc-Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960, có đăng một bức ảnh Nguyễn-Ái-Quốc với giòng chữ chú thích : Ðồng chí Nguyễn-Ái-Quốc (Hồ-Chí-Minh) năm 30 tuổi, đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”.

Mặc dầu lý lịch của ông Hồ đã được xác định rõ rệt, Thế-giới Tự-Do vẫn không biết mấy về con người kỳ lạ ấy, và phần lớn những hoạt động của ông Hồ vẫn chỉ có Ðệ-Tam Quốc-tế biết rõ mà thôi. Tất cả những điều ghi chép về ông Hồ chỉ là dựa vào tập hồ sơ mong manh của Mật thám Pháp, Anh và những lời thuật lại của một vài người đã có dịp gặp ông.

Trong lúc người Pháp đang ngắm nghía những bức ảnh của ông Hồ và dùng viễn vọng kính để nhìn mặt ông mỗi khi ông ra mắt công-chúng, thì tất cả nhân dân Việt Nam đều nhất nhất coi ông Hồ-Chí-Minh là Nguyễn-Ái-Quốc vì họ không tin được rằng trong cùng một thời đại mà một nước lại có thể sinh ra hai người có tài trí như ông Hồ. Ông Hồ nói lưu loát hàng chục thứ tiếng, và đã từng chu du khắp thế-giới dưới nhiều biệt danh, nửa đời sống trong khám đường – có thể cả khám đường Soviet – và nửa đời hoạt động chính trị trong bóng tối. Ông hơn hẳn các đối thủ chính trị của ông về cả chiến thuật cách mạng lẫn kinh-nghiệm chính-trị. Hồi thiếu thời ông đã đọc rất nhiều cổ-thư Trung-Hoa, và sau đó tiếp tục tự học trong khi bôn ba khắp Âu-châu và Mỹ-châu. Suốt trong thời kỳ ấy, ông hoạt động quan sát và học hỏi ở bạn bè cũng như trong sách báo. Cuối cùng ông đã được Ðệ-Tam Quốc-Tế huấn luyện một cách kỹ lưỡng và có quy củ: Do đó ông đã hấp thụ được ba nguồn văn-hóa khác nhau nhưng có giá trị tương đương ; văn-hóa Ðông-phương, Tây-phương và Mác-xít. Ông nói chuyện lưu loát với bất cứ ai, dù là nông dân Việt-Nam, quân-phiệt Trung-Hoa, triết-gia Ấn-Ðộ hay là nhà báo Tây-phương.

Trong suốt thời kỳ hoạt động chính trị trong bóng tối ông Hồ đã phải dùng nhiều mánh khoé, mưu mẹo, để trốn tránh cạm bẫy của Công-an và phá hỏng kế hoạch của kẻ thù. Nhờ sự tập dượt ấy mà ông Hồ đã trở nên một địch thủ vô song, vì qua bao nhiêu năm trời, ông đã học được cái tài đánh lạc hướng bất cứ ai muốn theo dõi ông. Ông đã nhiều lần trốn thoát khỏi tay Quốc-gia Việt-Nam, Trung-Hoa Quốc-dân-đảng, và các cơ quan tình báo Anh, Mỹ.

Ngoài trí thông minh xuất chúng, ông Hồ còn có một nhân phẩm rất cao. Nói tóm lại, ông có đủ những đức tính cần thiết của một nhà lãnh tụ. Nếp sống thanh bạch, lòng nhẫn nại, ý chí sắt đá và sự tận tâm của ông đối với cách mạng là một nguồn phấn khởi cho tất cả những ai đã làm việc dưới quyền ông và phụng sự đất nước nói chung. Nhiều người cho rằng ông Hồ đã thừa hưởng tinh thần cách mạng của tổ phụ và của người đồng hương. Nhẫn nại, thanh đạm và cần cù là những đức tính thường thấy ở ngườI dân Nghệ-An, nơi sinh quán của ông Hồ. Ông Hồ đã phát huy những đức tính của người Nghệ, gần giống đức tính của người Nhật-Bản, nhưng khác ở chỗ là, nói chung người Nhật hết sức có kỷ luật, còn người Nghệ-An thì thường có khuynh hướng chống lại tất cả mỗi chính quyền. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Nghệ-An vẫn là đất cách mạng, và cách đây chưa đầy 10 năm, vào năm 1956. Nghệ-An đã là trung tâm cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại chính chế-độ của ông Hồ.

Nhờ tuyên truyền khôn ngoan và những câu chuyện truyền kỳ thêu dệt, mà trong những năm kháng chiến, trước khi xẩy ra những vụ đấu tố trong phong trào “Cải Cách Ruộng Ðất”, ông Hồ-Chí-Minh đã được dân chúng coi là thánh sống. Trên bàn thờ gia đình nào cũng có ảnh ông Hồ, và riêng ở một vài nơi như ở Quảng-Ngãi chẳng hạn, nông dân thường vái chân dung ông Hồ mấy vái trước khi ra đồng làm việc.

Ông Hồ sống rất thanh đạm, những gì là xa xỉ không cần thiết không bao giờ ông dùng đến. Ông chỉ có mỗi một tật là nghiện thuốc lá Mỹ và ông hút luôn mồm. Trong nhiều năm trời, ông ăn mặc in hệt một nông dân, bên ngoài khoác một chiếc “blouson” Gia-nã-đại và đi dép cao-su lốp ô-tô. Nhìn cách ăn mặc của ông, ai cũng biết ông đã hiến cuộc đời của ông để phục vụ nhân dân. Ông Hồ đã bỏ nhà ra đi từ ngày trẻ tuổi, và không có vợ con, cho nên không ai có thể gán cho ông chủ trương gia đình trị hoặc tệ tham nhũng được. Ông Paul Mus, sứ gia của chính phủ Pháp đến gặp ông Hồ vào năm 1947 để đàm phán ngưng chiến, đã có nói như sau : “Ông Hồ-Chí-Minh là một nhà cách mạng cương trực và thanh liêm không khác Saint Just”.

Câu so sánh này là một lời khen vàng ngọc đối với bất cứ một chính khách nào, vì trong thời đại này, nhất là ở cái nước kém mở mang, hiếm có những chính trị gia hoàn toà thanh liêm. Thành thử, riêng về phương diện đạo đức, ông Hồ đã được toàn dân Việt-Nam kính mến trọng vọng. Ông thành công phần lớn là nhờ nổi tiếng cần kiệm liêm chính, vì ở Việt-Nam cũng như ở nhiều nước khiếm khai khác, quần chúng thường tin tưởng ở nhân phẩm và tác phong của vị lãnh tụ, hơn là ở chương trình chính trị của các đảng phái.

Nhìn lại quá khứ, ta thấy không một đối thủ nào của ông Hồ có cơ thắng ông cả. Ông Nguyễn-hải-Thần, đồng chí và là người kế vị của Phan-bội-châu, là một nhà ái quốc chân chính, nhưng trong 40 năm lưu vong ở Trung-Quốc, ông không may đã bị nghiện thuốc phiện. Cựu Hoàng Bảo-đại, mà ngườI Pháp tái phong làm “Quốc Trưởng” năm 1949 đã mang tiếng là một người chơi bời, sống một cuộc đờI trụy lạc trong hơn 20 năm. Sau chót là ông Ngô-đình-Diệm, nhờ áp lực của Mỹ mà cầm quyền ở miền Nam Việt-Nam từ 1954 đến 1963. Ông Diệm và ông Hồ khác nhau về mọi mặt. Trong lúc ông Hồ từ bỏ gia đình từ hồi thanh niên thì trái lại, ông Diệm lúc nào cũng đùm bọc anh em và họ hàng thân thích, giao cho họ quyền cao chức trọng trong chính-phủ và trong quân đội. Trong khi ông Hồ chuyện trò thân mật với thợ thuyền và dân quê thì ông Diệm ngồi bảnh chọe trên chiếc ghế mạ vàng, thò chân cho các tù trưởng dân tộc thiểu số hứng lấy để rửa, in hệt vua chúa thuở xưa nhận lễ quy thuận của người Thượng.

Một điểm quan trọng mà các quan-sát-viên ngoại-quốc thường không để ý đến là sự phẫn nộ của nhân dân Việt-Nam trước nạn tham nhũng của quan lại mà chính-quyền thực dân vẫn hay dung túng. Chỉ riêng nạn quan-tham lại-nhũng cũng đủ là một động cơ thúc đẩy nhiều người hướng theo cách mạng.

Bất cứ người nào mưu loạn, không cần biết họ theo tôn chỉ, lý thuyết nào, cũng được nhân dân Việt-Nam hâm mộ “coi là một đấng trượng phu quả cảm đứng ra bênh vực lẽ phải và công lý. Ðối với nhân dân Việt-Nam, bọn quan lại làm tay sai cho thực dân để lên xe xuống ngựa, “tối rượu sâm banh sáng sữa bò” sống xa hoa giữa một xã hội đói rách, không những có tội “mãi quốc cầu vinh” mà còn làm gai mắt thiên hạ vì thói “no lưng ấm cật”. Có nhiều nguyên nhân gây nên cách mạng, nhưng ở Việt-Nam, nguyên nhân chính là lòng dân khao khát muốn diệt trừ quan lại tham nhũng và cường hào ác bá. Theo sự suy xét của người thường dân Việt-Nam thì cách mạng là đấu tranh giữa “liêm” và “vô liêm”, giữa “chính” và “bất chính”, còn vấn đề chủ-nghĩa mà sau này Cộng-sản gài thêm vào chỉ là yếu tố phụ. Cứ xét theo điểm này, cũng đủ biết viên cựu Hoàng-đế Bảo-đại cũng như viên cựu quan lại Ngô-đình-Diệm không tài nào địch nổi Hồ-Chí-Minh, con người cách mạng thuần túy, điển hình đạo đức, hay theo lờI Paul Mus : Saint Just của thế kỷ thứ 20.

Ông Hồ sinh tại làng Kim-Liên, huyện Nam-đàn, tỉnh Nghệ-an vào ngày nào tháng nào không ai biết, mà có lẽ ông cũng không nhớ, nhưng sau khi làm chủ-tịch, ông nhận đại là ngày 19 tháng 5 năm 1890, vì năm 1946, đúng ngày 19 tháng 5, cao ủy của Pháp là D’Argenlieu tới Hà-Nội. Ông Hồ lấy cớ là ngày sinh nhật của ông để buộc D’Argenlieu phải thân hành đến chúc thọ ông trước. Theo tục lệ ngày xưa ông Hồ được cha mẹ lần lượt đặt cho hai tên. Một tên “cúng cơm” lúc nhỏ và một tên “bộ” khi đến tuổi đi học. Tên cúng cơm của ông là “Côông”. Sự thực là Cung, nhưng vì muốn sau này con cháu khỏI phải kiêng chữ “cung” nên đặt chệch ra là “Côông”. Tên “bộ” của ông là Nguyễn-tất-Thành. Sau này, ông còn tự đặt nhiều tên, nào là Nguyễn-Ái-Quốc, Lý-thụy, Victor, Song Man Tcho, Vương-sơn-nhi, Hồ-Chí- Minh, v.v..; cốt để thay hình đổi dạng tùy theo công tác bí mật của ông.

Ông xuất thân trong một gia đình nho giáo, tiểu địa chủ và tiểu quan lại như đa số những người có chữ nghĩa về thời ấy. Ông nội đỗ Cử nhân được bổ làm tri huyện triều Tự-Ðức nhưng vì gàn bướng nên bị cách chức. Thân phụ ông đậu phó-bảng, tên là Nguyễn-sinh-huy, sau đổi ra là Nguyễn-tất-sắc, thường gọi là cụ Bảng Sắc. Cụ không là quan và tham-gia phong-trào Văn-thân. Bị đày ra Côn-đảo vài năm rồi đưa về cấm cố ở Saigon. Trong thời kỳ này cụ làm nghề bốc thuốc, và theo nhiều người kể lại thì cụ không lấy tiền, chỉ cần một ngày hai bữa do gia đình bệnh nhân cung phụng, như tục lệ lúc bấy giờ.

Sáng sớm cụ thường ngồi trước cửa chợ Bến-Thành, chờ người mời đi chữa bệnh. Nhưng một hôm cụ ngồi suốt từ sáng đến chiều mà không được ai mời cả. Mãi gần tối, một ông bạn đi qua thấy cụ vẫn cứ ngồi yên, mới nhắc cụ là Mồng Một Tết, không ai rước thầy lang về nhà. Cụ mới nhớ ra và nhận lời ông bạn mời về nhà dùng cơm.

Ông Hồ là con út trong gia đình. Khác các anh chị, ông Hồ được theo học trường Pháp-việt vì một ông cố đạo khuyên cụ Bảng như vậy. Ông đậu bằng Cơ Thủy năm 1907 và được bổ làm hương sư nên thường gọi là Cậu Giáo Thành. Phong-trào Văn-thân thức tỉnh lòng ái-quốc của ông và sau khi nghe nói cụ Bảng được đưa về Saigon, ông bỏ việc vào thăm cụ. Bà chị ông Hồ tên là Bạch-Liên, cũng nổi tiếng là một phụ nữ có khí phách cách mạng. Hồi còn trẻ bà đính hôn với Mai-ngọc-ngôn đỗ tú tài, nhưng chưa kịp cưới thì vị hôn-phu của bà bị bắt đưa ra Côn-đảo và chết ngoài đó. Bà ở vậy, không lấy chồng và mất vào khoảng năm 1953.

Anh ruột ông Hồ là Nguyễn-tất-đạt, thường gọi là ông Cả Ðạt. Ông học tài thi phận nên kiếm ăn bằng nghề gõ đầu trẻ. Năm 1946, nghe tin ông Hồ đã trở thành chủ-tịch chính-phủ, hay nói đúng, chủ-tịch Hồ-Chí-Minh chính là em ruột ông, ông đáp đáp tàu ra Hà-Nội mong gặp em sau hơn 30 năm xa cách. Nhưng hồi ấy ông Hồ còn đang dấu tung tích nên không dám tiếp ông anh ở Bắc-bộ-phủ. Ông gửi ông Ðạt ở nhà một người đồng hương là ông Mai-ngọc-thiệu, và tối ông đến thăm. Hai anh em trò chuyện hồi lâu, sau đó ông Ðạt lẳng lặng về Nghệ. Chừng hai năm sau ông Ðạt mất, không có dịp gặp ông Hồ trở lại.

Sau khi ông Hồ vào Saigon thăm cha, Cụ Bảng Sắc bàn bạc với mấy cụ cách mạng khác và quyết định tìm cách cho ông Hồ sang Pháp. Mấy cụ thu xếp cho ông Hồ xuống làm “bồi” dưới tàu La Touche-Treville chạy đường Saigon Marseille. Năm 1912 ông Hồ xách khăn gói xuống tàu, mang theo một bức thư cụ Bảng viết cho cụ Phan-chu-trinh, hồi đó ở Paris, mà cụ quen từ ngày ở Côn-đảo. Cụ Bảng ngỏ ý muốn nhờ cụ Phan dìu giắt ông, lúc bấy giờ còn là một thiếu niên mới lớn lên. Cụ cũng căn dặn ông Hồ phảI hết sức nghe lời cụ Phan.

Tới Paris, ông Hồ đưa trình cụ Phan bức thư giới thiệu của cụ Bảng, và ở với cụ Phan trong một thời gian. Nhưng ít lâu sau ông Hồ không tán thành chính-kiến của cụ Phan, nhất là chủ trương đề huề hợp tác với Pháp. Thất vọng ông Hồ trở lại làm “bồi tàu”, bôn ba khắp năm châu bốn bể – trước khi dừng chân ở Luân-đôn. Trong một chuyến đi ông Hồ có ghé qua Saigon thăm cha là cụ Bảng. Hai cha con chưa kịp hàn huyên thì cụ Bảng đã vác gậy rượt theo ông Hồ, vì từ trước cụ Phan đã biên thư cho cụ Bảng kể chuyện bất đồng chính kiến giữa cụ và ông Hồ ở Paris. Ông Hồ bèn trở xuống tàu, và từ đây ông không gặp cụ Bảng một lần nào nữa. Có thể vì câu chuyện này mà một phần nào ông Hồ đã quyết tâm cắt đứt mọi liên hệ với gia đình. Ngày nay giòng giõi cụ Bảng Sắc chỉ còn một mình ông Hồ, vì ông Cả Ðạt có lấyvợ nhưng không có con.1

Ông Hồ ở Luân-đôn từ 1913 đến 1917, làm phụ bếp cho khách sạn Carlton dưới quyền một ngườI đầu bếp Pháp nổi tiếng, tên là Escoffier. Ngoài giờ làm việc ở khách sạn ông hoạt động cho Liên Hiệp Công Nhân Hải Ngoại, một tổ chức bí mật chống thực dân do công nhân Hoa-kiều và Ấn-kiều thành lập ở Luân-đôn. Hồi Thế Chiến thứ I sắp kết liễu, bạn bè ở Luân-đôn khuyên ông nên sang Pháp tổ chức một phong trào tương tự vì ở Pháp hồi đó có 60.000 Việt kiều cư ngụ (hoặc đi lính Pháp). Tại Paris, ông gặp ông Nguyễn-thế-Truyền, một kỹ sư hóa học. Ông Truyền giới thiệu ông Hồ với một nhóm ái-quốc thuộc các thuộc địa khác của Pháp hồi ấy cũng đang lưu vong ở Ba Lê. Nhóm này thành lập một hội mệnh danh là “Liên Hiệp Thuộc Ðịa”, xuất bản một tờ báo lấy tên là Le Paria; đồng thời ông Hồ và ông Truyền cũng bí mật xuất bản tờ Việt-Nam Hồn, nhờ những người Việt-Nam “làm tàu” lén đưa về Việt Nam. Một mặt khác, dựa vào những tài liệu do Liên Hiệp Thuộc Ðịa cung cấp, ông Hồ viết cuốn “Le Procès de la Colonisation Francïaise” (Lên án Thực-dân Pháp). Nguyễn-thế-truyền đề tựa cuốn sách hồi ấy ông Truyền đã nổi tiếng trong giới khuynh tả ở Pháp. Ông Truyền còn giúp ông Hồ soạn thảo bản “Chương Trình 8 điểm” mà ông Hồ mang vào Versailles, định đưa cho Tổng thống Woodrow Wilson, nhân dịp ông này đến Versailles để ký hòa ước với Ðức. Trong “Chương Trình 8 điểm” ông Hồ đòi tự trị, tự do dân chủ, ân xá các chính trị phạm, bình đẳng Pháp Nam, và bãi bỏ chế độ “làm xâu” thuế muối và chính sách bắt dân tiêu thụ rượu ty. Nhưng lính Pháp không cho ông Hồ vào gặp Tổng Thống Wilson. Do đó ông không có dịp vận động Hoa-kỳ ủng hộ cách mạng Việt-Nam. Về Paris, ông Hồ đăng “Chương trình 8 điểm” trên tờ Việt-Nam Hồn, làm chấn động dư luận ở Việt-Nam khi tờ báo về tới nơi. Những bài ông viết ông đều ký tên Nguyễn-ái Quốc, cái tên rất nhiều người biết cho đến ngày ông đổi thành Hồ-Chí-Minh.

1Theo nhiều nguồn tin thì, hồi ở Hồng-Kông, ông Hồ có một người vợ Tàu, sinh được một người con gái. Hồi năm 1950, ông có nhờ Ðảng-bộ Ðảng Cộng-sản ở Hồng-Kông tìm giùm nhưng không thấy.

Ông Nguyễn-thế-Truyền cũng giới thiệu ông Hồ với nhiều nhân vật khuynh tả ở Paris, như Léon Blum, Marcel Cachin, Marius Moutet v. v… Chịu ảnh hưởng của mấy người này, ông Hồ gia-nhập đảng Xã-Hội Pháp, và viết bài báo cho tờ Le Populaire, cơ quan ngôn luận của đảng. Ðược tham dự đại hộI đảng ở Tours năm 1920, ông Hồ bỏ phiếu tán thành việc thành lập Ðệ Tam Quốc-Tế và chủ nghĩa Cộngsản.

Và ngay từ lúc ấy ông ly khai với ông Nguyễn-thế-Truyền và mấy người Quốc-gia khác ở Paris. Những người này vẫn tiếp tục đấu tranh cho quốc gia dân tộc, còn riêng ông Hồ, ông hiến hẳn đời ông cho Cộng-sản quốc tế.

Năm 1960, nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, và sau khi đã tự nhận là Nguyễn-Ái-Quốc, ông Hồ có giải thích sự biến chuyển tư tưởng của ông như sau :

“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa Cộng-sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc-Tế Thứ Ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lê, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa Xã-hội, chủ nghĩa Cộng-sản mới giải-phóng được các dân-tộc bị áp-bức và những người lao-động trên thế giới khỏi ách nô-lệ.

Ở Việt-Nam cũng như ở Trung-Hoa có chuyện cẩm nang thần kỳ. Hễ gặp khó khăn chỉ việc mở cẩm nang ra là biết cách xử trí. Ðối với cách mạmg Việt-Nam và dân tộc Việt-Nam, chủ nghĩa Mác-Lê không những là một cẩm nang thần kỳ, một địa bàn chỉ hướng, mà còn là mặt trời soi sáng con đường thẳng tới thắng lợi cuối cùng, tớI chủ-nghĩa Xã-hội và chủ nghĩa Cộng-sản”.

Xem giọng văn kể trên, ta thấy rõ thoạt tiên ông Hồ chỉ coi chủ-nghĩa Cộng-sản như một lợi khí dùng để tranh đấu cho nền độc lập quốc gia; nhưng sau khi “ăn phải bả” ông bèn coi chủ-nghĩa Cộng-sản là một cứu cánh. Ðây là trường hợp thông thường của những người say mê chủ-nghĩa Cộng-sản, nhưng những danh từ ông dùng như “cẩm nang thần kỳ” và “mặt trời soi sáng” chứng tỏ ông tin ở chủ-nghĩa Mác-Lê một cách cuồng tín, in hệt tín đồ tin ở đấng “chí tôn” của mình.

Ông Hồ sang Nga lần thứ nhất năm 1922 với tư cách đại biểu thuộc địa lần đầu tiên tham dự Ðại Hội Thứ Tư của Ðệ Tam Quốc Tế.

Năm 1923, ông Hồ lai sang Nga, tham dự Ðại Hội Nông Dân Quốc Tế, và đến năm 1924 ông trở lại lần nữa để theo học tại trường Ðại Học Công Nhân Ðông Phương. Lần này, ông ở lại Nga hơn một năm trời, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê và các chiến thuật Bôn-sê-Vích. Hồi ấy muốn sang Nga các đảng viên Cộng-sản Việt-Nam ở Pháp thường mua giấy thông hành của sứ quán Trung-Hoa ở Paris, bằng giá rất rẻ, giả dạng là Hoa kiều muốn hồi hương qua đường Moscou và Hải Sâm Uy.

Năm 1925, ông Hồ được phái sang Quảng-Châu với công tác truyền bá chủ .nghĩa Cộng-sản vào Việt-Nam. Ngày ông lên đuờng sang Trung-Quốc chính là ngày bắt đầu một giai đoạn khác trong sự nghiệp cách mạng của ông. Sự nghiệp này kết thúc khi ông biệt tăm-trên chính trường Á-đông vào năm 1933. Vì tất cả những hoạt động của ông Hồ trong khoảng thời gian này đều trực tiếp và mật thiết liên hệ với các biến cố ở Việt-Nam, nên chúng tôi sẽ đề cập đến trong Chương 4 nhân dịp trình bày sự phát triển của chủ-nghĩa Cộng-sản ở Việt-Nam.

Chương 4

CỘNG-SẢN XUẤT HIỆN

Lịch trình phát triển của Cộng-sản ở Việt-Nam, kể từ ngày có những tiểu tổ Cộng-sản đầu tiên trên đất Việt cho đến ngày toàn thể Bắc Việt nằm dưới chế độ vô sản chuyên chính, có thể tạm chia làm sáu giai đoạn, mỗi giai đoạn là một phong trào đấu tranh thuận theo hoàn cảnh và tình hình lúc bấy giờ.

Vì vậy nên mỗi phong trào có một khẩu hiệu, một chương-trình giai-đoạn và một chiến lược khác nhau. Việc điều khiển từ bên ngoài cũng thay đổi mỗi thời kỳ một khác. Có khi Việt Cộng trực tiếp nhận huấn thị từ Moscou hoặc Bắc-Kinh, có khi phải thông qua một trạm liên lạc đặt ở Quảng-châu, Thượng-hải, Bangkok, hoặc Paris. Ðại để thì sau mỗi cuộc đấu tranh rầm rộ, hoặc bị khủng bố quá nặng nề, hoặc vì chia rẽ nội bộ, phong trào lại tạm lắng yên trong một thời gian. Sáu phong trào chính, đáng nêu lên là :

1. Phong trào Thanh-niên (1925 . 1929)
2. Phong trào Sô Viết Nghệ An (1930 . 1932)
3. Phong trào Mặt Trận Bình Dân (1936 – 1937)
4. Phong trào Việt Minh (1941 . 1946)
5. Phong trào Kháng chiến (1946 . 1954)
6. Phong trào Cải Cách Ruộng Ðất (1953 . 1956)

Mục đích của phong trào Cải Cách Ruộng Ðất là thiết lập nền “vô-sản chuyên chính”. Sự thực thì phong trào này đã được bố trí từ năm 1951 bằng đạo luật Ban bố Thuế Nông-Nghiệp và cuộc đấu tranh chính trị (xem Chương 7). Trong chương này chúng tôi chỉ kể qua năm phong trào đầu với mục đích làm sáng tỏ phong trào thứ sáu mà chúng tôi sẽ trình bày cặn kẽ trong các chương sau, vì phong trào thứ sáu này mới thực sự áp dụng chiến-thuật Mao-Trạch-Ðông để thiết lập chế độ cộng sản ở Việt-Nam.

PHONG TRÀO THANH-NIÊN

Chỉ mấy tháng sau khi ông Hồ được Ðệ Tam Quốc Tế phái sang Quảng-châu, năm 1925, là ông tổ chức ngay Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Ðồng Chí Hội. Giả dạng là người Tàu, ông Hồ theo chân phái bộ Nga sang Quảng-Châu với chức vụ công khai là thông dịch viên cho phái bộ, nhưng kỳ thực ông không có trách nhiệm nào khác là tìm cách truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào nội địa Việt Nam. Ông mang thông hành Tàu, ghi tên là Lý Thụy, nhưng đối với một số Việt kiều ở Quảng-châu ông nói thực ông là người Việt. Ông lấy bí danh là Vương-sơn-Nhi nên nhiều người thường gọi ông là ông Vương. Có một điều đáng chú ý là thuở ấy, vì mới bắt đầu hoạt động cách mạng, nên ông Hồ còn phạm khuyết điểm về việc dấu kín tung tích. Khi ông lấy bí hiệu là Vương-sơn-Nhi ông đã dùng lối “triết tự” vì ba chữ Vương-sơn-Nhi gộp lại thành chữ Thụy. Vì vậy nên những người Việt có học chữ nho biết ngay Vương-sơn-nhi với Lý-thụy chỉ là một. Cũng vì sơ hở nên chẳng bao lâu mọi người đều biết ông là Nguyễn-Ái-Quốc, một cán bộ cộng sản đã từng nổi tiếng ở Pháp. 15 năm sau, ông trở lại vùng này với một tên khác là Hồ-Chí-Minh, nhưng ông hết sức bí mật nên không ai đoán được tông tích của ông, kể cả ông Nguyễn-tường-Tam cùng bị giam trong một nhà tù.

Quảng-châu là trung tâm cách-mạng của Tôn-dật-tiên và hồi ấy hãy còn là thủ đô chính trị và hành chánh của chính phủ Quốc Dân Ðảng. Việc thiết lập trường Trung Ương Quân Sự Chính Trị ở Hoàng-phố, gần đấy, biến Quảng-châu thành một trung tâm phản-đế thu hút một số đông thanh niên ở khắp Ðông Nam Á, tới đấy để nghiên cứu chính trị và luyện tập quân sự. Việt-Nam chiếm đa số trong nhóm này.

Tới Quảng-châu vào đầu năm 1925, ông Hồ bắt đầu tổ chức Việt-Nam Thanh Niên Cách Mệnh Ðồng Chí Hội để tuyên truyền chủ-nghĩa cộng-sản. Nhưng vì những người Việt-Nam lưu vong ở Quảng-châu đã có chân trong các đoàn-thể quốc-gia có sẵn từ trước, nên ông Hồ phải tự nhận là quốc-gia, làm thân với mấy lãnh-tụ quốc-gia với mục-đích thu hút những đảng-viên thanh-niên trong mấy tổ-chức này.

Ông Hồ biết rõ những người Việt lớn tuổi đã có căn bản Nho-giáo vững chắc, khó lòng tin theo chủ-nghĩa Mác-xít, nên ông chỉ chú trọng đến những phần-tử thanh-niên, cựu học sinh các trường Pháp-việt và do đó đã hấp thụ được ít nhiều tây học. Rất may mắn cho ông là chỉ một năm sau, hàng trăm thanh-niên bãi khóa năm 1925, bị khủng-bố, chạy trốn sang Tàu. Trong số những thanh-niên mới xuất ngoại này, ông Phặm-văn Ðồng, hiện nay làm thủ-tướng Bắc Việt là người học cao nhất. Ông Ðồng đang học trường Bưởi, sửa soạn thi tú tài thì bãi-khóa và bị đuổi. Những thanh-niên khác đều học ở các lớp dưới, nhưng tất cả đều có một điểm giống nhau : họ không có lấy một chút nho học, mặc dầu họ đều xuất thân trong các gia-đình nho học.

Ông Hồ giảng dạy cho các đồng-chí Thanh-niên của ông một số bài về Cách Mạng Nga, lý-thuyết Mác-xít về đấu tranh giai-cấp và một vài tác-động cách mạng. Ông dạy họ cách in truyền đơn bằng thạch, cách vận động dân chúng biểu tình, xúi dục công nhân đình công, v. v… Chương-trình huấn-luyện của ông chỉ có sáu tháng là xong. Cuối năm 1925, ông đã huấn luyện xong một khóa, tuyển lựa những ngườI xuất sắc vào ban lãnh-đạo Thanh-niên còn những người khác thì phải về Việt-Nam tuyên truyền tôn chỉ của Hội và bí-mật tuyển mộ thêm hội-viên. Trụ-sở của Hội đặt ở Quảng-châu. Ban Trung-ương phụ trách xuất bản tờ báo lấy tên là Thanh-niên và phiên dịch những tài-liệu cộng-sản từ chữ Tàu sang tiếng Việt.

Những loạt tài-liệu đầu tiên này thường dịch không sát nghĩa, vì ngay những người Tàu dịch từ nguyên bản tiếng Nga hoặc tiến Ðức sang tiếng Tàu đã dịch sai rồi, đến khi dịch từ tiếng Tàu sang tiếng Việt lạI sai thêm một lần nữa. Có nhiều danh-từ người Tàu dịch sai như Cộng-sản (của chung) hoặc vô-sản (không có của) vẫn còn dùng cho đến ngày nay, nhưng dùng mãi nên quen. Vì dịch không đúng nên hồI ấy các tài-liệu nói về chủ-nghĩa Mác-xít rất khó hiểu. Mãi mấy năm sau, khi có những tài liệu cộng sản xuất bản ở Pháp sang tới Việt-Nam, nhiều người mới có dịp nghiên cứu cặn kẽ chủ-nghĩa Mác-xít.

Vì ông Hồ đã được huấn luyện chính-trị ở Moscou trong những năm Stalin mới cầm quyền nên ông hết sức tin tưởng hai nguyên tắc căn bản của lý-thuyết Stalin-nít :

1 – Muốn thành lập vô-sản chuyên chính nhất thiết phải trải qua hai giai-đoạn . một cuộc cách mạng tư-sản dân-quyền trước, rồi một cuộc cách-mạng vô-sản sau. Cách mạng tư-sản dân-quyền dọn đường cho cách-mạng vô-sản.

2 – Chỉ có giai-cấp công-nhân mới có đủ tài đức để lãnh đạo cách mạng. Giai-cấp nông-dân, vì bản-chất hẹp hòi hám lợi, nên chỉ có thể coi là “bạn lâu dài” của cách mạng.

Vì gắn bó với nguyên tắc thứ nhất, nên trong thời kỳ đầu ông Hồ trông chờ một phần nào ở sự thành công của phe Quốc-gia, ông đợi họ bắc một nhịp cầu để ông bước qua tiến tới cách mạng vô-sản, in hệt như Lênin đã thực hiện ở Nga. Vì vậy nên ông coi những phần tử quốc-gia như “bạn giai-đoạn”, mặc dầu ông vẫn tìm hết cách để lấn át. Thực-dân Pháp trông thấy cộng-sản tranh chấp với quốc-gia và nhiều lần phản-bội phe quốc-gia, nên nhẹ tay một phần nào với cộng-sản. Pháp trông thấy ở cộng-sản một địch thủ lợi hại đối với quốc-gia và hy vọng cộng-sản sẽ tiêu hủy phe quốc-gia mà Pháp ghét nhất vì Pháp cho họ là những phần-tử “cực-đoan chống Pháp”. Tuy những khẩu hiệu của cộng-sản cũng chống đối thực dân, nhưng tương đối không dữ dội bằng khẩu hiệu của phe quốc-gia.

Vì tin ở nguyên tắc thứ hai nên trong thời-kỳ đầu, ông Hồ chú trọng tuyên truyền và tổ chức công-nhân, nhiều hơn nông-dân. Ông chủ-trương huấn-luyện chủ-nghĩa Mác-xít cho một số trí-thức nửa mùa rồi dùng họ để tuyên truyền và tổ chức công nhân ở mấy trung-tâm kỹ-nghệ, thành lập những tiểu tổ cộng-sản.

Chương trình của ông Hồ và của đệ-tam Quốc-tế là như vậy. Nhưng có nhiều biến-cố xảy ra khiến cộng-sản mất uy-tín đối với nhân dân và đưa lại những hậu-quả không tính trước. Việc đầu tiên là các tiểu tổ cộng-sản thiếu tiền để hoạt-động, và muốn “kinh tài”, họ tổ chức “tống tiền” các nhà giàu. Vì chỉ mới được huấn-luyện qua loa nên những đảng viên cộng-sản đầu tiên coi bất cứ người khá giả cũng là “kẻ thù” của “vô-sản”. Giới tư-sản lúc đầu có cảm-tình với cộng-sản, nhưng sau vì bị tống tiền nhiều quá nên hết tín nhiệm.

Vì cộng-sản tống tiền khắp nơi, nên chính-quyền thuộc địa cũng được dịp khép cán-bộ cộng-sản vào tội “cướp của giết người” và giam họ cùng với thường phạm.

Việc thứ hai là vụ ông Hồ chủ-trương bắt cụ Phan nộp cho Pháp khiến cho phe quốc-gia bắt đầu ngờ vực và cắt đứt mọi liên lạc.

Việc không ngờ thứ ba là năm 1927, đột nhiên Tưởng-giới-Thạch trở tay “phản cộng”, bất thình lình tiêu diệt đồng-minh cộng-sản đương cộng-tác với ông trong cuộc hành quân Bắc Phạt. Việc “trở mặt” của họ Tưởng chặn đứng công cuộc vận động của Nga ở Trung-Hoa và ở khắp Á-Ðông. Trưởng phái-bộ Nga là Michael Borodin đã từng làm cố vấn chính-trị cho Trung-Hoa Quốc-dân-đảng từ thời ông Tôn-Văn phải vội vã rời khỏi Trung-Hoa, mang theo tất cả nhân-viên phái-bộ, trong số có ông Hồ.

Hôm Tưởng-giới-Thạch ra lệnh giết Cộng thì ông Hồ đang huấn luyện chính-trị các đảng-viên Thanh-niên. Ông đình ngay lớp học và khuyến cáo các đảng-viên ai nấy nên tìm cách thoát thân về nước.

Hôm sau, một đảng-viên gặp ông ở Quảng-châu, tỏ ý lo ngại và vấn kế ông. Ông Hồ lấy bút chì viết vào mảnh giấy bốn chữ “Tuế hàn tùng bá” và trao cho anh ta. Ý ông Hồ muốn nói là trong cơn khủng-bố những người cách mạng phải giữ vững tinh thần và chỉ có những lúc cách mạng điêu đứng mới rõ ai là người vững tinh thần cũng như mùa đông rét mướt mới thấy rõ cây tùng và cây bá vẫn giữ được mầu xanh, lâu hơn các cây khác.

Từ Quảng-châu Borodin chạy lên Hán-khẩu để hội-đàm với Uông-tinh-Vệ, vì họ Uông cũng chống với Tưởng và chiếm cứ Hán-Khẩu, thành lập chính-phủ Vũ-Hán. Borodin hứa Liên-xô sẽ giúp Uông chống Tưởng đến cùng, nên Uông bằng lòng thực-hiện cải-cách ruộng-đất để lôi kéo nông-dân.

Nhưng rốt cuộc, Uông không nghe lời Borodin và đầu hàng Tưởng. Sau đó toàn thể phái đoàn Nga, trong số đó có ông Hồ phải lên đường về Moscou. Từ ngày ấy trở đi, phong trào cộng-sản Á-châu chuyển một hướng mới, không theo ý muốn của đệ-tam Quốc-tế.

Trước khi lên đường về Nga, ông Hồ chọn người lớn tuổi nhất trong Thanh-niên, tức là ông Hồ-tùng-Mậu, để thay thế ông điều khiển Thanh Niên Cách Mệnh Ðồng Chí Hội. Ông Mậu là người rất xứng đáng vì ông cũng khôn ngoan và cẩn thận như ông Hồ. Ông Hồ dặn ông Mậu nhất thiết phải bám sát đường lối đã vạch sẵn, nghĩa là tiếp tục truyền bá chủ nghĩa Mác dưới hình thức chống thực-dân. Ông Hồ cũng dặn là nên tránh những khẩu hiệu quá khích, có tính cách đấu-tranh giai cấp và có thể gây ảnh hưởng xấu đối với giai cấp tư-sản Việt-Nam mà cộng-sản còn đang cần sự ủng-hộ. Ông Mậu theo đúng lời ông Hồ dặn nhưng chẳng may chỉ một năm sau, ông Mậu bị Quốc-dân-Ðảng Tàu bắt. Người thay thế ông Mậu là Lâm-đức-Thụ và tư cách ông Lâm-đức-Thụ như thế nào chúng ta đã thấy rõ trong Chương 2.

Tháng 5, 1927, Thụ triệu-tập toàn quốc đại-hội tại Hong-Kong. Trong nước phái đại-biểu sang dư, nhưng ba đại biểu tỏ ý bất bình vì nhận thấy Thụ sinh sống một cách quá xa-hoa. Hắn ở một khách sạn vào bực sang nhất, uống rượu whisky và hút xi-gà Manila loại hảo hạng. Họ trông rõ Tổng-bộ ở Hồng-kông đã “hủ hóa” và “hữu khuynh” nên khi họ đề nghị bỏ Thanh-niên, lập Cộng-sản, và đề-nghị của họ bị Thụ bác bỏ, họ đập cửa ra về. Về tới quốc-nội, họ tự động thành lập một đảng Cộng-sản, mệnh danh là Ðông-Dương Cộng-sản Ðảng. Thấy đảng này phát-triển mạnh, Thụ thấy cần phải đổi Thanh-Niên Cách-mệnh Ðồng Chí-hội thành một đảng Cộng-sản khác, mà Thụ đặt tên là An-Nam Cộng-sản Ðảng. Cùng lúc ấy, một số đảng-viên Tân-việt tả khuynh cũng lập một đảng cộng-sản thứ ba, lấy tên là Ðông-Dương Cộng-sản Liên-Ðoàn. Như vậy là cùng một lúc, trong nước có đến ba đảng cộng-sản tranh chấp với nhau. Pháp được dịp đàn áp và không bao lâu hầu hết các đảng viên ba đảng đều bị bắt, và phong-trào cộng-sản hoàn toàn xuy xụp.

PHONG-TRÀO SÔ-VIẾT NGHỆ-AN

Về tới Moscou, ông Hồ được đệ-tam Quốc-tế phái sang Berlin hoạt-động cho Liên-hiệp Phản-Ðế, nhưng chẳng bao lâu, ông lại được phái sang Bangkok là nơi đệ-tam Quốc-tế mới đặt trụ-sở Nam-HảI Vụ. ông Hồ làm việc dưới sự chỉ huy của một đảng-viên cộng-sản Pháp tên là Hilaire Noulens. Ông phụ-trách tuyên truyền và tổ chức Việt-kiều ở mấy tỉnh đông-bắc nước Xiêm, gần biên giới Lào. Việt-kiều ở Xiêm khá đông và gồm có hai loại. Một loại gọi là “An-nam cũ” là con cháu những người theo chúa Nguyễn chạy sang Xiêm từ cuối thế-kỷ thứ 18. Loại thứ hai là “An-nam mới” gồm những người buôn bán ở Lào, có dịp sang Xiêm, rồi thấy ở Xiêm dễ sinh nhai, nên ở luôn bên ấy. Ngoài ra còn một số cách mạng trốn Pháp, chạy sang Lào rồi qua Xiêm. Nhiều người đã quên tiếng Việt và đã sinh hoạt in hệt ngườI Thái, nhưng họ vẫn tha-thiết với quê hương đất tổ. Ðối với họ, ông Hồ lại tái diễn chiến lược của ông đã áp-dụng với Việt-kiều ở Tàu.

Một hôm ông Hồ đang hoạt-động ở miền đông-bắc nước Xiêm thì một người lái buôn cùng làng bắt gặp và nhận ra ông. Người này về kể chuyện lại với người làng và khi tin này đến tai nhóm cộng-sản ở Nghệ-An, họ bèn cử người sang tìm ông Hồ, khẩn khoản yêu cầu ông tìm cách giải-quyết vấn-đề chia rẽ nội bộ, hiện rất trầm trọng. Ông Hồ nhận lời, nhưng mãi một năm sau ông mới được Ðệ tam Quốc-tế cho phép.

Một điều đáng chú-ý là ông Hồ đã từng hoạt-động ở Trung-Hoa mà nay lại phải đổi sang Xiêm, thuộc một khu vực văn hóa khác hẳn. Việc này cũng như nhiều việc khác chứng tỏ, sau khi thất bại thảm bại ở Trung-Hoa và nhất là sau khi Mao-Trạch-Ðông đi trái đường lối của Ðệ tam Quốc tế, Stalin đã tỏ ý chán ghét cộng-sản Tàu. Vì bỏ rơi Trung Cộng, nên Stalin cũng bỏ rơi luôn cả Việt-cộng mà Stalin coi là một chi nhánh. Nhận định rằng cộng-sản da trắng ngoan ngoãn hơn và trung thành hơn cộng-sản da vàng, Stalin đưa ra kế-hoạch “tập hậu” các đế-quốc tư-bản bằng cách ra lệnh cho các đảng cộng-sản Pháp, Anh, Hòa-lan tổ chức cộng-sản ở các thuộc-địa của mấy nước này ở Ðông Nam Á. Vì vậy nên Nam HảI Vụ càng ngày càng quan trọn hơn Ðông Á Vụ. Nhưng từ 1930 trở đi. Stalin lại nhận thấy rằng cộng-sản không thể bành-trướng ở mấy thuộc-địa này, nếu không có sự tham gia của Hoa-kiều, vì hồi đó Hoa-kiều tương-đối giác ngộ chính-trị nhiều hơn dân địa phương. Trụ-sở liên lạc lại đưa trở về Thượng-hải, và sau này về Hồng-kông. Trong khi ấy thì Mao-Trạch-Ðông đã tiến dần về phía Tây, bỏ trống miền duyên-hải. Thấy không còn ảnh hưởng của họ Mao, Stalin lại để ý đến miền này vì là miền khá nhiều công-nghệ và công-nhân, và cử một phái đoàn tới Thượng-Hải để lo xây-dựng lại phong trào. Nhờ chủ trương mới này, ông Hồ mới có dịp trở về Hoa-Nam, gặp lại các đồng-chí cũ của ông mà trong mấy năm liền ông không được phép liên lạc.

Ngày 6 tháng Giêng năm 1930, ông Hồ triệu-tập đại-biểu ba đảng Cộng-sản đến Hồng Kông, “đả-thông tư-tưởng” và hợp nhất ba đảng làm một lấy tên là “Việt-Nam Cộng-sản Ðảng”, nhưng mười tháng sau đổi lại là “Ðông Dương cộng-sản Ðảng”, có ý bao gồm cả Lào và Cam-Bốt. Ðể đi sát với phong-trào, trụ-sở của Tổng-bộ cũng đưa về quốc-nội, đặt tại Hải-phòng. Sau công-tác này, ông Hồ được chỉ-định làm Vụ-trưởng Ðông-Á Vụ và giữ việc liên-lạc giữa Moscou và tất cả các cơ-quan hoạt-động của đệ-tam Quốc-tế tại Ðông và Ðông Nam á-châu.

Vì trách-nhiệm quá lớn, và bao biện nhiều việc nên ông Hồ phải ủy-thác phong-trào Việt-Nam cho các đồ-đệ của ông. Những người này đều là thanh-niên chưa chín chắn như ông Hồ, và vì phần đông đã được huấn-luyện bên Tàu nên họ dễ bị ảnh-hưởng của Cộng-sản Trung-Hoa. Vì được chứng-kiến vụ Quảng-châu Công-xã, vụ Nông-dân Bạo-động ở Hồ-nam, nên phấn-khởi muốn noi gương bạo động của Trung-cộng. Việc V.N.Q.D.Ð. bị thất-bại đau đớn năm 1930 cũng kích-thích họ muốn làm hơn phe Quốc-gia. Một mặt khác, nạn kinh-tế khủng-hoảng trên thế-giới đã tràn tới Việt-Nam và làm cho nông-dân Việt-Nam điêu đứng. Năm nào cũng được mùa mà thóc thừa thãi, nhưng gạo không xuất-cảng được khiến từ địa-chủ đến bần-cố-nông đều sống dở chết dở. Nông-thôn bị kiệt-quệ khiến thương-gia ở thành-thị cũng bị phá sản. Tất cả mọi từng lớp nhân-dân đều “méo mặt” duy chỉ có công-chức là, trái lại, phong lưu hơn trước. Vì lương vẫn y nguyên mà, vì nạn giảm-phát, giá-trị đồng bạc tăng lên 4, 5 lần. Công-nhân những xí-nghiệp lớn cũng được coi là may mắn vì số lương tuy có bị giảm ít nhiều, nhưng dù sao cũng còn “đồng ra đồng vào”, không như các tầng lớp khác trong dân gian, không chạy đâu ra tiền đong gạo và đóng thuế.

Vì công-nhân và công-chức tự thấy may mắn hơn người khác nên phải cố bám lấy việc làm. Vì vậy Việt-Cộng không thể vận-động họ đấu-tranh theo đúng chủ-trương của đệ-tam Quốc-tế. Ngược lại, vì nông-dân mỗi ngày một điêu-đứng nên tình-hình nông-thôn sẳn-sàng bùng nổ. Họ chết đói trong khi gạo phải dùng để đốt “xúp-de”. Ðứng trước tình-trạng ấy, Việt-cộng không kìm hãm nổi ý thích bắt chước Trung-cộng tổ-chức nông-dân khởi loạn. Nhân ngày 1-5-1930, họ huy-động nông-dân kéo đến huyện lỵ biểu-tình đông như kiến. Chính-phủ thuộc-địa dùng lính lê-dương đàn áp, nã liên-thanh vào đoàn người biểu-tình. Bị thất-bại, các lãnh-tụ cộng-sản ở Nghệ-An rút lui về một vài căn cứ và tuyên bố thành-lập chính-quyền Soviet, theo in hệt kế-hoạch của Mao-Trạch-Ðông đã từng áp-dụng ở Hồ-Nam từ bốn năm trước. Nhưng sở dĩ ông Mao còn duy-trù được phong trào vì ông đã tổ-chức Hồng-quân để kháng cự với quân-đội “Tàu-phù” của Tưởng-giới-Thạch, không lấy gì làm oai hùng lắm. Còn Việt-cộng thì hồi đó chưa hề tổ-chức dân-quân nên không thể nào chống cự nổi sự đàn-áp của lính lê-dương. Vài tháng sau phong trào Soviet Nghệ-An hoàn toàn tan vỡ và đến cuối năm 1931 tất cả các đảng-viên cộngsản đều bị Pháp bắt và đưa đi tù đày.

Về phần ông Hồ thì ông bị người Anh bắt ở Hồng Kông cuối năm 1931. Ðược tha, có lẽ là vào khoảng năm 1932 (không có tài liệu đích xác về ngày ông đựợc tha) ông đi Singapore, bị bắt tại đấy rồI điệu trở về Hồng Kông. Vì bị bệnh lao, hoặc khai là vậy, ông được đưa về bệnh-viện rồi đột nhiên ông mất tích. Chính quyền Anh ở Hồng Kông không hề tuyên bố bề việc ông Hồ đã biến mất trong trường hợp như thế nào, nhưng có dư luận ngờ rằng ông đã bí-mật thỏa thuận với mật-thám Anh là nếu để ông thoát, ông sẽ giúp họ một việc quan trọng nào đó. Việc này cũng rất có thể vì trước kia ông Hồ đã từng thỏa thuận như vậy với mật thám Pháp (Xem Chương 2). Báo Daily Worker, cơ-quan của Ðảng Cộng-sản Anh đăng một tin vắn tắt, nói ông Hồ đã chết vì bệnh lao trong khám đường Hồng Kông nên cả mật thám Pháp lẫn Cộng-sản Việt-Nam đều tin là thực. Năm 1933, mật-thám Pháp ghi vào hồ-sơ Nguyễn-Ái-Quốc là đã chết ở Hồng Kông. Không ai biết ông Hồ đi đâu, nhưng có điều chắc là từ ngày ông biến khỏI Hồng Kông cho đến năm 1941 ông im hơi lặng tiếng trên trường chính-trị không hề liên-lạc với Ðông-Dương Cộng-sản Ðảng.1

Ngoài ông Hồ và một số nhân viên cao cấp trong điện Kremlin, không ai có thể biết ông ở đâu và làm gì trong thời gian tám năm ông biệt tích. Ngay đến Nguyễn-khánh-Toàn, dạy Việt văn ở Moscou từ 1927 cũng tin là ông Hồ đã chết thực. Sau khi về nước, Toàn có tâm sự với một số bạn bè về nỗi ngạc nhiên khi thình lình thấy ông Hồ tới nhà, vào đầu năm 1941. Ông Hồ đến để rủ Toàn về nước hoạt-động cách-mạng. Toàn đồng-ý và chỉ mấy ngày sau, giấy tờ làm xong hai người đáp tàu xuyên Si-bê-ri về Diên-An.

Toàn cũng tiết-lộ một câu chuyện về đời tư của ông Hồ. Toàn nói, mấy giờ sau khi hai người lên đường, một thiếu phụ người Nga đến gõ cửa, nói là để làm vợ ông Hồ trong khi ông lưu trú tại Moscou.

Ðối với những người quá bí-mật như ông Hồ thì ai nói gì chúng ta hẵng biết làm vậy, không nên tin hẳn mà cũng không nên gạt hẳn. Nhưng xét cho cùng thì câu chuyện của Toàn cũng không phải hoàn toàn vô-lý vì chính ngay Toàn, đã có vợ Nga và có con ở Moscou, mà khi ghé qua Diên-An cũng “có” ngay một cô vợ Tàu, đẻ luôn hai con. Rồi khi về Việt-Nam năm 1946, lại về một mình và hai năm sau “chính thức” lấy một con gái điền-chủ mới 17 tuổi (Hồi ấy Toàn đã 50). Hình như đệ-tam Quốc-tế có lệ cung-cấp “vợ giai-đoạn” cho những cán-bộ quốc-tế vì thường xuyên phải lưu-động và giữ tông-tích bí-mật nên không mang gia-đình theo được. Những “vợ” của các cán-bộ đi lại được “gán” cho các cán-bộ đến, thành một thứ “vợ luân chuyển”. Việc Thiếu-tướng Nguyễn-sơn sau khi bỏ vợ ở Diên-An về nước được Hội Phụ Nữ Cứu-Quốc gán hết nữ cán-bộ này đến nữ cán-bộ khác cho phép chúng ta ngờ rằng những việc “kiếm vợ” cho các cán-bộ lưu-động thuộc trách-nhiệm các đoàn-thể phụ-nữ địa-phương.

Việc Toàn rất đổi ngạc nhiên khi thấy ông Hồ đột nhiên đến nhà tăng thêm giá-trị, giả-thuyết ông Hồ đã bị “cấm cố” tại một địa-điểm nào đó trong nội-địa Liên-Xô từ 1933 đến 1941. Ðấy chỉ là một giả-thuyết, nhưng có một điều chắc chắn là năm 1941 ông đến Diên-An với Toàn là lần đầu tiên. Giả-thuyết ông bị Stalin đưa đi cấm cố cũng dựa trên một lý luận khác nữa. Hồi phong-trào Sô-viết Nghệ-An phát khởi, thái-độ của ông Hồ không được rõ rệt. Hình như ông không tán thành, nhưng ông không hề ngăn cản, hoặc ngăn cản không nổi. Trong khóa Chỉnh-Huấn năm 1953-54, Ðảng-ủy có giảng là ông Hồ bỏ phiếu chống việc phát-động nhân-dân bạo-động, theo kiểu Mao-Trạch-Ðông mà Stalin cho là phản lạI đường lối Lenin, nhưng vì chỉ có một mình ông chống nên vì thiểu số, ông phải phục-tùng đa-số câu chuyện này cốt ý đề cao tinh thần phục tùng đa-số của ông Hồ. Dù ông Hồ không ngăn cản, hoặc ngăn cản không nổi, đấy cũng là lần đầu tiên ông phạm khuyết điểm về lãnh-đạo, và không làm tròn nhiệm-vụ Stalin và Ðệ tam Quốc-tế đã giao phó cho ông. Có lẽ vì ông Hồ phạm khuyết-điểm về phong-trào Soviet Nghệ-An nên Stalin mới quyết-định giao trách-nhiệm lãnh-đạo Ðông-Dương Cộng-sản Ðảng lại cho Maurice Thorez, lãnh-tụ Cộng-sản Pháp. Stalin phải “đưa” ông Hồ đi khuất một chỗ, nếu không phải là để trừng phạt, thì cũng là để Thorez có điều kiện nắm trọn quyền, vì nếu ông Hồ còn lảng vảng ở Á-Ðông, thì rất có thể Việt-cộng vẫn tiếp tục nghe theo ông Hồ mà không chịu tuân lệnh Thorez. Vắng mặt ông Hồ, Ðảng Cộng-sản Pháp nghiễm nhiên làm trung-gian giữa Moscou và Việt-cộng. Thể thức này tồn tại trong mười năm, cho đến ngày Thế-Chiến thứ Hai cắt đứt mọi giao-thông giữa Pháp và Việt-Nam.

1 Ngày nay Việt Cộng nói ông Hồ ở Diên-An và có gửi bài về đăng báo Le Travail (1937) nhưng đấy là chuyện hoàn toàn bịa đặt.

PHONG TRÀO MẶT TRẬN BÌNH DÂN

Chính sách dùng Cộng-sản “Mẫu-quốc” thay mặt Moscou điều-khiển Cộng-sản “Thuộc-quốc” bắt buộc Ðệ-tam Quốc-tế phải thay đổi chiến lược. Vì Cộng-sản thuộc-quốc từ nay phải tuân theo lệnh cộng-sản mẫu-quốc nên Ðệ-tam Quốc-tế không cho đề cao tinh-thần dân-tộc và bắt phải gác bỏ các khẩu hiệu chống thực-dân, thay thế bằng những khẩu-hiệu chống tư-bản. Từ đấy, tuyên truyền cộng-sản không đả kích chính-quyền thuộc-địa mà chỉ đả kích tư bản Pháp và Việt.

Ðệ tam Quốc-tế cũng thu xếp cho Việt Cộng ở Pháp và một số ở Nga lên đường về nước. Phần lớn về Nam-kỳ vì nhờ có chế-độ thuộc-địa tương đối rộng rãi hơn chế-độ bảo-hộ nên họ dễ bề hoạt-động hơn. Họ xúi-dục công nhân các xí-nghiệp và các đồn-điền đấu-tranh chống “bọn sài lang da trắng và da vàng” đang hút máu hút mủ giai cấp công-nhân. Phong-trào phát triển rất mạnh, nhưng lần này Cộng-sản đệ-tam không nắm được độc-quyền vận-động vì Cộng-sản đệ-tứ cũng ở Pháp về cạnh tranh với họ rất gắt gao. Nói chung Cộng-sản đệ-tứ gồm nhiều trí-thức xuất-sắc hơn, nên được giới trí-thức và tiểu tư-sản Nam-kỳ hâm mộ hơn. Nhưng phần đông quần chúng vẫn do Cộng-sản đệ-tam nắm vững. Ðồng-thời các đảng-viên Ðông Dương Cộng-sản Ðảng còn đang bị giam trong các nhà tù dung thì giờ nhàn rỗi để trau dồi lại lý-thuyết Mác-Lê và giảng dạy chính-trị cho nhau. Nhiều cựu đảng-viên V.N.Q.D.Ð. như Trần-huy-Liệu chẳng hạn, quay theo cộng-sản trong dịp này. Họ ùa theo cộng-sản quá nhiều đến nỗi một cựu đảng-viên V.N.Q.D.Ð. ở Côn-đảo tập-hợp các đồng-chí cũ lại rồi tự đâm cổ để cảnh-cáo họ về tội phản-bội tôn-chỉ quốc-gia và làm hổ uy danh của các bậc tiền bối. Nhưng dần-dà, lý tưởng quốc-gia cũng bị coi là hẹp hòi, lỗi thời và phần đông cho rằng số phận Việt-Nam sau này hay, hay dở, là do ở sự thành bại của các đảng tả phái bên Pháp. Vì vậy nên khi Mặt-trận Bình-dân lên nắm chính-quyền ở Pháp, họ lại càng tin-tưởng và phấn khởi.

Vì bên mẫu-quốc chính-quyền đột nhiên thay đổi, nên chính-phủ Ðông Dương bị bỡ ngỡ, không biết nên xử-trí với Cộng-sản ra sao. Tiếp tục khủng-bố thì sợ trái với chính-sách mới của mẫu-quốc, mà không khủng-bố thì sợ cộng-sản làm già. Vì chính-quyền địa-phương do dự nên phong-trào bột phát rất nhanh chóng. Trong Nam, Stalin-nít và Tờ-rốt-kýt thi-đua hoạt-động. Nhưng vì Tờ-rốt-kýt không phục Cộng-sản Pháp và không tín-nhiệm Mặt trận Bình-dân nên có thể công-kích chính-quyền thuộc địa dữ-dội hơn Cộng-sản đệ-tam, và vì vậy nên được dân chúng hâm mộ hơn. Vì phải tuân lệnh Moscou, không được phép đả-kích thực-dân nên cộng-sản đệ-tam khó ăn khó nói. Ở ngoài Bắc thì trí-thức thuộc mọi xu hướngchính trị tập-hợp, xuất bản một tờ báo tiếng Pháp lấy tên là Le Travail . vì chỉ có báo viết bằng Pháp văn mới được xuất bản không cần phải xin phép và không bị kiểm-đuyệt. Nhóm Le Travail gồm nhiều người yêu nước không đảng phái, một số đệ-tam mới ở tù ra, một cộng-sản Ðệ-tứ (Ðệ tứ rất bành-trướng trong Nam nhưng hầu như không có ở ngoài Bắc) và hai cựu đảng-viên Tân-việt là Ðặng-thái-Mai và Võ-nguyên-Giáp. Hai người này đã gia-nhập Ðông-Dương Cộng-sản Liên-đoàn từ 1930.1

Trong mấy tháng đầu, nhóm Le Travail hợp tác chặt chẽ và gây nhiều hào hứng trong nhân-dân. Sau đó, những người Pháp có chân trong Ðảng Xã-Hội S.F.I.O. thành lập hai chi-nhánh của Ðảng, một ở Hà-Nội và một ở Saigon, thu nhận người Việt làm đảng-viên. Vì họ trực thuộc đảng Xã-hội Pháp đang nắm chính-quyền bên mẫu-quốc nên chính quyền thuộc-địa tỏ ý kính-nể và để mặc họ đấu tranh bênh vực thợ-thuyền và chống những bất-công xã-hội. Cộng-sản đứng ngoài tiếp tay bằng cách huy-động công nhân biểu-tình, đình-công để ủng hộ những yêu sách của đảng Xã-hội. Một kết-quả tưng bừng của cuộc hợp-tác này là lễ kỷ niệm ngày 1 tháng 5, 1937. Ðảng Xã-hội đứng lên tổ chức, nhưng Cộng-sản huy động hai vạn quần chúng tới dự và biểu-tình, tuần hành khắp Hà-Nội.

1 Mai và Giáp đều là “con nuôi” của Louis Marty, giám đốc phòng chính-trị của phủ Toàn-quyền. Marty kiếm việc cho Mai dậy học ở Trường Gia-Long mà giám-đốc là Bailey, một người Pháp, và giao Giáp, hãy còn là sinh-viên, cho Mai trông coi. Trong khi những đảng-víên Tân-việt khác bị tù-đày hoặc cấm cố thì hai người ung dung sống ở Hà-nộI cho đến ngày Giáp được Pháp đưa sang Tầu theo Việt Minh chống Nhật. Giáp có theo học lớp “chiến tranh du-kích” do Mỹ mở ở Tỉnh-tây, nhưng không bao giờ lên Diên An. Giáp và Mai coi nhau là “anh em kết nghĩa” nhưng sau khi vợ Giáp chết trong tù, Giáp lấy cô Hà, con gái Mai kém Giáp gần 20 tuổi mà trước kia Giáp vẫn bế trong tay hồi còn là “chú cháu”.

Sau khi Mặt-trận Bình-dân lên nắm chính-quyền ở Pháp được ít lâu thì chính-quyền Ðông-Dương ra lệnh ân-xá cho tất cả chính-trị phạm. Ðược thả ra, các đảng viên cộng-sản lập tức hoạt động lại. Nhưng lần này họ rất thận trọng. Họ chia làm hai nhóm, một nhóm chuyên về hoạt động công-khai. (Ðặng-xuân-Khu, Hạ-bá-Cang1, v.v…) một nhóm bí mật (Phạm-văn-Ðồng, Lê-văn-Hiến, v.v…) phụ trách việc xây dựng lại các tiểu-tổ. Nhóm công khai do Ðặng xuân-khu lãnh-đạo, xâm nhập báo Le Travail và mưu đả phá nhóm Tờ-rốt-kýt. Nhưng chẳng bao lâu tờ báo cũng bị kiện và đóng cửa. Sau đó, cộng-sản đệ-tam tổ chức một nhóm riêng, xuất bản hai tờ báo, một tờ tiếng Pháp lấy tên là Rassemblement, và một tờ báo Việt lấy tên Tin-Tức, nhưng cả hai đều nặng mùi cộng-sản và không có trí-thức ngoài đảng tham gia nên bán không chạy.

Dần dần nhân dân mất hào hứng. Chính-phủ Mặt-trận Bình-dân tỏ ra không kém thực-dân hơn các chính-phủ trước. Chương-trình “cách-mạng” của Mặt-trận chỉ biểu lộ bằng những lời hứa hão, và nếu cần vẫn áp-dụng chính-sách khủng-bố. Sau khi Mặt-trận Bình-dân ở Pháp tan rã thì phong-trào Mặt-trận Bình-dân ở Việt-Nam cũng tiêu tan và tiếp đến là Thế-chiến thứ Hai. Ðảng Xã-hội ngừng hoạt-động, còn Cộng-sản thì lẳng-lặng lui vào bóng tối. Vì giao-thông giữa Pháp và Việt-Nam bị cắt đứt, nên đảng Cộngsản Pháp không thế nào chỉ huy cộng-sản đàn em ở Việt-Nam được nữa.

Tuy không bạo-động, Mặt-trận Bình-dân cũng ảnh-hưởng rất nhiều đến chuyển biến sau này của Cách-mạng Việt-Nam. Chính nhờ dịp này mà lần đầu tiên báo chí, sách vở cộng-sản xuất bản ở Paris và ở Moscou tràn ngập các hiệu sách Việt-Nam và cũng là lần đầu tiên mà trí-thức và tiểu-tư-sản Việt-Nam có tài liệu chính xác về lý-thuyết Mác-xít. Hệ thống tư-tưởng Mác-xít bắt đầu thay thế cho ý niệm thô sơ của xu-hướng quốc-gia. Công chúng quan tâm nhiều đến chế-độ dân chủ hơn là độc-lập quốc-gia, và theo quan niệm của nhiều người thì Cộng-sản là một thứ Dân-chủ tuyệt đối.

Vì được thụ hưởng ít nhiều quyền lợi dưới thời Mặt-trận Bình-dân nên công-nhân coi cộng-sản là kẻ chính-thức đứng ra bênh vực họ. Nông-dân hồi đó chưa biết đọc, biết viết nên không hiểu Mác-xít, Stalin-nít là nếp tẻ gì cả, nhưng họ cũng lấy làm bùi tai khi nghe cán bộ cộng-sản hứa sẽ chia đều ruộng đất. Cộng-sản tuyên-truyền họ gia nhập những hội tương-thân, tương-trợ do cán-bộ cộng-sản kiểm-soát.

Những đảng-viên cộng-sản hồi đó phần lớn thuộc thành phần khá giả trong nông-thôn, địa-chủ hoặc phú-nông không có địa-vị trong làng, xã và thường bị quan-lại áp-bức. Cộng-sản lui vào bí-mật nhưng vẫn nắm vững các tiểu tổ gồm 1 vạn đảng-viên thực-thụ mà một số cảm-tình đông hơn. Nhưng từ 1939 cho đến 1941 cộng-sản mất dần uy-thế, một phần vì chính-quyền khủng bố, một phần vì sau khi quân đội Nhật kéo vào Việt-Nam, nhân dân Việt-Nam bỗng nhiên quay lại xu hướng quốc-gia. Một mặt khác, vì Liên-xô ký hiệp-ước bất-xâm-phạm với Ðức Quốc-xã và giữ thái độ trung-lập đối với Nhật nên Việt-cộng, cũng như cộng-sản tất cả các nước khác đều lúng túng không biết ăn làm sao, nói làm sao. Nhưng mặc dầu ngậm miệng, họ vẫn giữ vững lòng tin và nắm vững quần chúng của họ không cho lý tưởng quốc gia xâm-nhập. Sau cùng, họ gặp hai may mắm là Nhật-Bản trịnh trọng tuyên-bố tôn-trọng chủ-quyền thực dân của Pháp ở Ðông Dương và Liên-xô, bị Ðức tấn-công, nghiễm nhiên trở thành đồng-minh của các nước dân chủ Tây-phương. Việt-cộng liền đưa ngay ra khẩu hiệu “Tiêu diệt cả thực dân Pháp lẫn fát-xít Nhật”. Khi Nhật bị yếu thế và các lãnh-tụ cộng-sản trốn sang Tàu trở về với danh-nghĩa “giải-phóng”, uy-tín cộng-sản lại lên rất cao. Ðấy là phong trào Việt-minh.

1 Ðặng-xuân-Khu bây giờ là Trường-Chinh, Hạ-bá-Cang bây giờ là Hoàng-quốc-Việt.

Chương 5

CÓ CÔNG MÀI SẮT, CÓ NGÀY NÊN KIM

Việc Việt-cộng cướp được chính quyền ở Việt-Nam có thể coi là một hậu quả của Thế-chiến thứ Hai. Nhiều tác giả đã trình bày cặn kẻ về vụ này, nên trong cuốn sách nhỏ này chúng tôi chỉ lược kê lịch trình tổng quát, thay vì nghiên-cứu tỉ mỉ, vì chúng tôi muốn dành chỗ để nói nhiều hơn về một điểm mà chưa ai nói tới. Ấy là việc Việt-cộng áp-dụng chiến lược Mao-Trạch-Ðông để thành lập chế-độ vô-sản chuyên-chính tại Việt-Nam. Về một vài sự việc nào đó, sự trình bày của chúng tôi có thể khác với sự trình bày của một quan sát viên từ bên ngoài nhìn vào. Sở dĩ như vậy là vì chúng tôi chỉ căn cứ vào những sự tai nghe mắt thấy trong thời gian tham gia kháng chiến, không dựa vào những tài liệu của Cộng sản hoặc của Pháp, vì những tài liệu đó thường mâu thuẩn và nhiều khi không xác thực.

PHONG-TRÀO VIỆT-MINH

Năm 1940, ba tháng sau khi Pháp bị bại trận thì quân-đội Nhật kéo vào Việt-Nam. Vì đã ký một hiệp ước bất-xâm-phạm với Ðức-Quốc-Xã, nên Nga giữ thái độ trung lập, mặc cho hai phe, “đế quốc” và “phát-xít” đánh nhau. Nhưng ngồi xa nhìn rõ, có lẽ đệ-tam Quốc-tế đã dự đoán hậu quả của việc Nhật chiếm đóng Ðông-Dương tiên kiến việc Nhật lật đổ chính quyền thực dân Pháp và có lẽ cả việc Nhật bại trận. Moscou nhận định tình hình Việt-Nam rất thuận lợi cho một cuộc cách-mạng cộng sản. Ông Hồ từ một nơi khuất nẻo nào đó được gọi về Moscou và được phái sang Hoa Nam để tiếp tục một sứ-mạng màông đã phải bỏ dở trong ngót mười năm.

Như đã tường thuật trong Chương 3, ông Hồ lên đường sang Trung-Hoa vào mùa xuân năm 1941 ; cùng đi với ông có Nguyễn-khánh-Toàn. Nhưng cùng ngồi trên xe lửa, ông Hồ nhận thấy Toàn đã mất hết tác phong cách-mạng, một điều mà ông thực quả không ngờ. Trong 15 năm sống ở Moscou Toàn được hưởng quy chế “chuyên viên ngoại quốc”, sống một cuộc đời thảnh thơi với một số lương to hơn lương người bản xứ. Thấy Toàn ăn uống luôn mồm ông Hồ biết là Toàn đã quen thói phong lưu, không thể nào chịu đựng sự gian khổ của một người cách-mạng hoạt động trong bóng tối. Vì vậy nên đặt chân đến Diên-An, ông Hồ liền thu xếp với Mao gửi Toàn ở lại và hẹn với Toàn sẽ nhắn Toàn về khi nào cách-mạng thành công. Toàn biết vậy và vui vẻ ở lại. Các đảng viên Cộng-sản kỳ cựu cho rằng đời sống của ông Hồ và của Nguyễn-khánh-Toàn là hai thái cực. Ông Hồ thì luôn luôn chịu đựng gian khổ còn Toàn thì luôn luôn phong lưu, có thể nói là “trưởng giả”, mặc dầu hai người đều là cách-mạng cộng sản.

Toàn lưu lại Diên-An và một lần nữa, lại được hưởng quy-chế dành riêng cho “chuyên viên ngoạI quốc”, được hưởng chế-độ “tiểu táo” trong khi người vợ bản-xứ ngồi cùng bàn phải ăn “đại táo”.1 Năm 1945 sau khi cướp được chính quyền, ông Hồ bận quá nên quên khuấy Toàn. Chừng một tháng sau có một ký giả Ca-na-đa ghé qua Diên-An kể cho Toàn nghe ở Việt-Nam mới có chính phủ mới và người cầm đầu là một ông già nói tiếng Anh rất thạo. Toàn đoán chắc là ông Hồ nên quyết định về nước. Sau khi được Mao-Trạch-Ðông chuẩn y, Toàn lên đường về Việt-Nam cùng với Nguyễn-sơn, một người Việt đã gia nhập Ðảng Cộng sản Trung-Hoa từ 1927. Trung-cộng nhận hai người là nhân viên của phái đoàn Trung-cộng xuống Trùng-khánh điều đình đình-chiến với chính phủ Tưởng-giới-Thạch, nhưng tớI Trùng-Khánh. Trung-cộng nhờ một Hoa kiều buôn bán ở Bangkok, nhận chuyển về, đưa hai người về tớI Lạng-sơn. Toàn về tới Hà-Nội vào khoảng tháng Chạp 1945, và sau một thời gian được cử làm Thứ- trưởng Bộ Giáo-dục, với nhiệm vụ kiểm soát Nguyễn-văn-Huyên, bộ-trưởng, nhưng chưa có chân trong Ðảng.

1 Tiểu táo (bếp nhỏ) : một người đầu bếp hầu riêng một người ăn, thức ăn sang trọng. Ðại táo (bếp lớn) : ăn theo kiểu tập-đoàn, thức ăn sơ sài.

Sau khi để Toàn ở lại Diên-An, ông Hồ lẩn qua vùng Quốc-Dân-Ðảng và một mình lặn lội xuống Hoa-Nam, tới sát biên-giới Việt-Nam. Ông dấu kín lý lịch, tự xưng là Hồ-Chí-Minh, giả dạng làm một chiến sĩ Quốc-gia Việt-Nam chủ trương đánh đuổi Phát-xít Nhật ra khỏi nước. Ông kết liên với nhóm quốc-gia đương tích cực hoạt động ở Hoa-Nam, nhưng đồng thời ông cũng tập hợp những đồ đệ cũ của ông lẩn quất trong vùng, trong số có ông Hồ-tùng-Mậu. Cùng với họ, ông Hồ tổ chức Mặt-trận Việt-Minh (tức là Việt-Nam Ðộc-Lập Ðồng-Minh). Ông cử người về nước liên lạc với các tiểu tổ cộng-sản còn đang ẩn náu trong bóng tối. Không bao lâu, những đảng viên quan trọng trước kia bị Pháp bắt giam trong các trại tập trung lần lượt thoát khỏi trại giam chạy sang Trung-Hoa. Pháp bắt giam các đảng viên cộng-sản hồi Nga buông tay cho Ðức đánh Pháp, nhưng sau khi Nhật chiếm Ðông-Dương và Nga bị Ðức tấn công thì cộng-sản và Pháp không còn kình địch nhau nữa mà chỉ còn một kẻ thù chung trước mắt là Nhật. Vì vậy nên cộng-sản bị giam vượt ngục không cần phải trèo tường.

Ông Hồ tình nguyện dùng tổ chức bí mật của ông trong nội địa Việt-Nam làm tình báo cho quân đội Ðồng Minh Anh . Mỹ. Ông đảm nhận việc dò xét và báo cáo những di-chuyển của quân-đội Nhật và giúp các phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi trốn thoát sang Trung-Hoa. Sau khi chiếm được Madagascar, Anh phóng thích các đảng viên cộng-sản “trong số có Hoàng-hữu-Mam) bị Pháp mang sang cấm cố ở đây và thả dù họ xuống vùng du-kích Việt-minh ở Cao Bằng1. Ngược lại, Mỹ cho Việt-minh một số radio xách tay và vài trăm tiểu-liên. Việt-minh dùng số khí giới này để tấn công mấy đồn Khố-xanh và lính dõng, nhưng tránh không giao-phong với quân-đội Nhật can trường và đầy đủ võ trang hơn. Chủ trương của ông Hồ là bảo toàn võ khí do Mỹ cung cấp để sau khi quân đội Nhật thất trận sẽ dùng để cướp chính quyền và đối phó với phe quốc-gia. Mọi việc đã xẩy ra đúng như ông Hồ đã tiên liệu. Sau khi Pháp được Ðồng-minh giải phóng và phe De Gaulle lên nắm chính quyền, viên toàn Decoux ở Ðông-Dương hổ thẹn vì đã theo chính phủ Vichy, và muốn đái tội lập công, dự định một cuộc tấn công đánh úp Nhật. Nhưng Nhật biết rõ âm mưu nên ngày 9 tháng 3, 1945, Nhật đảo chính Pháp trước khi Pháp kịp trở tay. Nhật bắt giam tất cả binh lính và thường dân Pháp, để Bảo-đại tiếp tục làm Hoàng-đế và giao cho cụ Trần-trọng-Kim thành lập một chính phủ “hữu danh vô thực”, chỉ có bộ Thanh-niên, không có bộ Quốc-phòng. Cụ Trần và một số nhân-viên trong chính-phủ của cụ là những người thật thà yêu nước nên việc đầu tiên họ làm là thả hết chính-trị phạm, kể cả cộng-sản. Nhưng sau khi ra khỏi tù việc đầu tiên của cộng-sản lại là gia-nhập phong-trào Việt-Minh để lật đổ chính-phủ Trần-trọng-Kim. Ngày 19 tháng 8, 1945, Việt-minh cướp chính quyền ở Hà-Nội. Vì Nhật đã đầu hàng Ðồng-minh từ 5 hôm trước nên bỏ ngỏ thành-phố không can-thiệp. Việt-minh chỉ biểu tình và bắn một vài phát súng sáu là viên khâm-sai Phan-kế-Toại vội vã đầu hàng. Bảo-đại cũng thoái vị và ông Hồ trở thành Chủ-tịch Chính-phủ Lâm-thời Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa. Mấy ngày sau, theo đúng Hiệp-ước Postdam, quân đội Anh đổ bộ lên Saigon và quốc quân Trung-Hoa tiến vào Hà-Nội để tước võ khí của bại quân Nhật-Bản. Hai đội quân chiếm đóng tìm cách ngăn cản phong trào Việt-minh. Trong Nam thì quân Anh thả tù binh Pháp, cho họ khí giới để đánh chiếm lại Việt-Nam, còn ngoài Bắc thì quân đội Lư-Hán giúp V.N.Q.D.Ð. và Việt-Nam Cách-mạng đồng-minh Hội chống chọi với Việt-minh. Phe quốc gia tuyên truyền chống Việt-minh bắt cóc và thủ tiêu cán-bộ cộng-sản và chiếm giữ một vài địa điểm làm căn cứ quân sự.

1 Cộng-sản xui Anh không tha những người Quốc-gia, trong số có cụ Nguyễn-thế-Truyền.

Bị chống đối mỗi ngày một kịch liệt, ông Hồ bắt buộc phải nhượng bộ phe quốc-gia, dành cho họ 80 ghế trong Quốc Hội bầu cử giả hiệu, thành lập Chính-phủ Liên Hiệp1 và hô hào toàn dân đoàn kết chống Pháp. Ðảng Cộng-sản tuyên bố tự giải tán để chứng tỏ nhiệt tâm của họ đối với chính nghĩa quốc gia, nhưng thật ra vẫn tiếp tục hoạt động bí mật và kiểm soát quần chúng. Trong khi ấy phe quốc gia cũng củng cố vị trí và tăng cường tuyên truyền chống Cộng. Trong lúc ông Hồ đang lúng túng vì bị Pháp và Quốc gia tấn công hai mặt thì một thỏa hiệp giữa Pháp và chính phủ Tưởng-giới-Thạch mang lại cho ông một lối thoát bất ngờ. Theo thỏa hiệp này, Tưởng-giới-Thạch ưng thuận rút quân ra khỏi miền Bắc Việt-Nam nhường chỗ cho quân đội Pháp.

Sau khi quân đội Lư Hán rút khỏi, Cộng sản lập tức tấn công và tiêu diệt V.N.Q.D.Ð., và sau đó tìm cách điều đình với Pháp. Ngày mùng 6 tháng 3 năm 1946, Việt-minh ký hiệp-định sơ bộ với Pháp, theo đó nước Pháp “thừa nhận Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa là một quốc gia ’tự do’ thuộc khối Liên Hiệp Ðông Dương và Liên Hiệp Pháp, có chính phủ, quốc hội, quân đội, và một nền tài chính riêng”. Sau này, Việt-minh cố gắng điều đình sửa lại một vài điều khoản trong Hiệp ước đó để cho Việt-Nam được hoàn toàn độc lập, vì theo Hiệp định sơ bộ thì quân đội Pháp vẫn có quyền chiếm đóng Việt-Nam. Hai cuộc hội nghị Ðà-Lạt (tháng 4 và tháng 5 năm 1946) và Fontainebleau (tháng 7 và tháng 8 năm 1946) đều thất bại mặc dầu ông Hồ đã đích thân sang Paris để vận động. Rốt cuộc, không lẽ ra về tay không, ông Hồ phải ký với tổng trưởng Pháp quốc quốc Hải ngoại, Marius Moutet, một đảng viên Xã hội mà ông đã quen trên 20 năm, một bản Tạm-ước xác nhận những điều khoản đã quy định trong Hiệp định sơ bộ. Nhưng quân Pháp không tôn trọng hiệp định cứ viện đủ mọi cớ để chiếm hết vị trí này đến vị trí khác, khiến chịu không nổi, ông Hồ phải trả đũa bằng một cuộc tấn công bất ngờ vào ngày 19 tháng Chạp năm 1946. Ông Hồ quyết định 11 giờ sáng, và định giờ khởi sự là 8 giờ tới. Võ-nguyên-Giáp đã lập tức truyền lệnh này đến tất cả các lục lượng Việt-minh trên toàn lãnh thổ. Nhưng, vào khoảng 2 giờ trưa hôm ấy, Giáp nhận được tin là Marius Moutet sắp lên đường sang Việt-Nam nên vội vã đến Bắc Bộ Phủ báo cáo với ông Hồ và hỏi ông xem có nên hoãn việc tấn công lại hay không. Ông Hồ bảo “cứ việc”, và thế là đêm ngày 19 tháng Chạp năm 1946 mở màn cho một cuộc chiến tranh kéo dài tới hơn tám năm trời.

Trước kia ông Hồ có ý đấu dịu với Pháp vì ông muốn cho Việt-minh có đủ thì giờ củng cố chính trị và quân sự. Có lẽ ông cũng ráng chờ xem Pháp Cộng và Trung Cộng làm ăn như thế nào, nhưng đến khi tình thế bắt buộc phải tự lực chống Pháp ông vẫn tin chắc thắng lợi cuối cùng sẽ về ông. Ông thừa biết Việt-Nam cách xa Pháp hàng ngàn dặm, và nước Pháp vẫn chưa hoàn toàn phục hồi sau cuộc chiếm đóng của Ðức-Quốc-Xã. Hơn nữa, sau Thế chiến thứ 2 quốc tế đã thay đổi hẳn khiến một cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa là một chuyện không thể nào thực hiện được nữa. Ông Hồ nhận định rằng Pháp càng đánh thì càng củng cố thêm uy thế của Việt-minh, vì sẽ làm cho Cộng-sản trở thành những chiến sĩ chân chính bảo vệ đất nước và thực sư giải phóng quốc gia, không “ngáp phải ruồi” như hồi mới cướp chính quyền. Ông Hồ trở thành biểu tượng của đoàn kết quốc gia, và mọi người nhiệt liệt hưởng ứng phong trào kháng chiến chống Pháp.

Cuộc kháng chiến

Võ-nguyên-Giáp muốn rập theo kế hoạch của Nhật trong cuộc đảo chính mùng 9 tháng 3, tấn công các trại binh Pháp đúng 8 giờ tối là giờ các sĩ quan Pháp đang ăn uống. Nhưng một tên Pháp lai làm tự vệ cho Việt-minh báo cho Pháp biết nên Pháp đủ thì giờ chuẩn bị. Ở một vài nơi không đủ sức chống đỡ, Pháp phải đầu hàng, nhưng Pháp giữ vững những thành phố hoặc vị trí mà quân số của họ đông hơn Giải-phóng quân cuả Việt-Minh. Tình trạng kéo dài trong ba năm : quân đội Pháp không dám mạo hiểm ra khỏi các vị trí hoặc thành phố, quân đội Việt-minh kiểm soát vùng quê, phá cầu, cắt đứt đường giao thông. Dần dần quân đội Pháp nới rộng vòng kiểm soát, nhưng đồng thời Việt-minh cũng tiến-bộ về quân sự. Tình-trạng cứ giằng co như thế cho đến ngày chính phủ Nam-Kinh xụp đổ và Mao-Trạch-Ðông tuyên bố thành lập nước Cộng-Hòa Nhân-dân Trung-Hoa ở Bắc-Kinh ngày mùng 1 tháng 10 năm 1949.

1 Chính-phủ Liên-Hiệp gồm có cộng-sản, quốc-gia và trung lập có thể coi là một thí-nghiệm “tam đầu chế” đầu tiên trong lịch-sử thế-giới.

Thấy ông Mao thành công ở Trung-Hoa, ông Hồ bèn yêu cầu viện-trợ. Tháng Hai năm 1950, Mao-Trạch-Ðông cử tướng Lã-quý-Ba làm cố vấn quân sự cho Võ-nguyên-Giáp. Ít lâu sau, Trung-cộng lại cử thêm nhiều chuyên viên sang giúp Việt-minh trong mọi ngành. Ngoài ra Trung-cộng còn ra lệnh cho hai tỉnh giáp giới Việt-Nam . là Quảng Tây và Quảng Ðông . cung cấp lương thực, võ khí và đạn dược cho quân đội Việt-minh. Và rất nhiều sĩ quan Việt-Nam được gửi sang Trung-Quốc học tập quân sự.

Ðược Trung-cộng ủng hộ, quân đội Việt-minh tổng tấn công các vị trí của quân đội Pháp dọc biên giới Việt Hoa, buộc quân đội Pháp phải rút về đồng bằng sông Nhị Hà ở phía nam. Thấy bước đầu thành công, tướng Lã-quý-Ba khuyên Việt-minh truy kích tấn công vào các vị trí Pháp ở đồng bằng. Nhưng vì Lã tướng quân không có mấy kinh nghiệm về sự tàn phá của không quân nên trong trận Ninh-bình quân đội Việt-minh đã bị tổn thất nặng nề, phải tháo chạy tán loạn vì bị phi cơ Pháp dùng bom napan đốt phá. Sau khi nhận thấy là đã tính lầm, Lã tướng quân bèn thay đổi chiến lược và tìm cách dụ quân đội Pháp tiến vào vùng rừng núi. Ðể thực hiện kế hoạch này, ông khuyên Việt Minh tấn công các đồn binh Pháp ở Lào. Vì nằm ở phía sau dẫy núi Trường-sơn, nên Pháp yên trí các vị trí này không bị tấn công, do đó không hề chuẩn bị đề phòng.

Việt-minh bắt đầu dự trữ lương thực . phần lớn là gạo và cá khô . vì ở Lào dân cư thưa thớt, không kiếm được lương thực tại chỗ. Việt-minh trưng dụng xe đạp mà dân chúng đã buôn lậu từ các khu vực bị Pháp chiếm đóng, dùng để “thồ” lương thực và đạn dược. Việt-minh vượt qua dẫy Trường-sơn và tiến qua các rừng núi Lào nhanh đến nỗi Pháp không kịp trở tay.

Việt Minh mở tất cả ba chiến dịch lớn ở Lào. Chiến dịch thứ nhất nhầm tấn công Luang Prabang, thủ đô Hoàng gia Lào. Trong chiến dịch này, Việt-minh đã tiến tới cách Luang Prabang chưa đầy 50 cây số về phía Bắc, vào ngày 30 tháng 4 năm 1953. Sợ Việt-minh tấn công một lần nữa, ngày 20 tháng 11 năm 1953, Pháp cho 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Ðiện Biên Phủ. Việt-minh bèn mở cuộc tấn công thứ 2 vào Trung Lào và chiếm đóng Thakhek ngày 28 tháng Chạp, và sau đó tiến quân xuống Hạ Lào. Mục đích là buộc Pháp phải chia quân đi trấn giữ mọi nơi ở Lào, và làm cho Pháp phải dùng số lớn phi cơ vào việc tiếp tế các đồn binh tản mát ở những nơi hẻo lánh. Rồi cuối cùng, Việt Minh mở một chiến dịch thứ ba, lần này cũng lại nhầm đánh Luang Prabang, và ngày mùng 8 tháng 2 năm 1954 chỉ còn cách thành phố này chưa đầy 35 cây số. Quốc vương Lào sang bên kia sông Cửu Long lánh nạn, còn Pháp thì vội vàng thả dù thêm quân xuống Ðiện Biên Phủ.

Tuy chẳng to tát gì, nhưng Luang Prabang cũng là một “thủ đô” nên Pháp phải bảo vệ đến cùng. Kế hoạch của Pháp là chặn cuộc hành quân của Việt-minh bằng cách cắt đứt đường tiếp vận của họ ở Ðiện Biên Phủ, một đồn binh nằm sâu trong vùng thượng du và ở ngay phía sau chiến tuyến Việt-Minh. Việt-minh bao vây Ðiện-Biên-Phủ. Pháp càng thả dù thêm quân thì Việt-minh càng bao vây thêm cho đến ngày Việt-minh dùng cao xạ rất chính xác của Tiệp-khắc hạ máy bay khiến Pháp không thả dù được nữa.

Việt Minh tấn công Lào, không phải nhằm chiếm đóng Lào mà thật ra chỉ để nhử Pháp lọt vào vùng núi. Tướng De Lattre de Tassigny là một chiến-lược-gia có tài, nhưng người kế vị ông kém quá nên không địch nổi với chiến lược Việt Minh. Chỉ vì muốn đánh vào hậu quân Việt Minh mà Pháp đã lọt vào tròng. Với quan niệm quân sự cổ điển Tây Phương, Pháp đã lâm vào thế bị động và không sao giữ nổI Ðiện Biên Phủ.

Ðến lúc ấy, Liên-xô hở cho Pháp biết là có thể chấm dứt chiến tranh mà Pháp không bị mất mặt nhiều. Pháp hưởng ứng ngay và Hội Nghị Genève được triệu tập năm 1954. Thoạt đầu Pháp ngần ngạI không chịu chấp nhận điều kiện của Việt-minh, nhưng trong lúc Pháp đang lưỡng lự, thì Việt-minh tấn công đại quy mô vào Ðiện Biên Phủ. Quân đội Pháp phải đầu hàng ngày mùng 7 tháng 5 năm 1954. Tin Pháp thua to ở Ðiện Biên Phủ làm náo động dư luận Pháp, và kết quả là chính phủ Mendès Frances phải hấp tấp ký một hiệp định nhượng bộ cho Việt-minh nhiều hơn là các lãnh tụ Việt-minh từng hy vọng.

Chiến tranh chấm dứt giữa lúc tỉnh Thanh Hóa sắp lâm vào nạn đói. Nằm trong khu vực phì nhiêu sông Mã, Thanh Hóa vẫn được coi là vựa lúa thứ hai của miền Bắc. Tự ngàn xưa, Thanh Hóa vẫn là nơi nuôi quân để chống lại quân Tầu. Vì không hề bị Pháp chiếm đóng, nên trong thời kỳ kháng chiến Thanh Hóa lại là nguồn tiếp tế lương thực cho quân đội Việt-minh. Có lẽ Pháp không đủ quân lực để chiếm vùng này, nhưng có thể là tại các tướng lãnh Pháp không chịu nghiên cứu lịch sử Việt-Nam và binh pháp Tôn Tử1 nên đã không chú ý đến tỉnh này. Muốn hiểu Thanh Hóa quan trọng nhường nào đối với kháng chiến, thì chỉ cần biết tỉnh này đã cung cấp 76 phần trăm tổng số lương thực cho quân đội Việt-minh ở Ðiện Biên Phủ. Con số này đã được nêu lên trong một điện văn tuyên dương thành tích của nhân dân Thanh Hóa. Một điều nữa nên biết là chỉ có 10 phần trăm số gạo xuất kho từ Thanh Hóa đến tới Ðiện Biên, vì hàng vạn dân công gánh gạo ăn dọc đường hết 90 phần trăm. Mỗi người gánh 15 ki lô, mỗi đêm đi 15 cây số. Ðể tránh máy bay họ nghỉ ngày, đi đêm. Tối đến có hàng vạn dân công lên đường, cứ 5 người lại có một người cầm đèn soi đường và mỗi khi có tiếng máy bay là lập tức thổi tắt đèn Ðứng trên đồi cao nhìn xuống đoàn người cầm đèn, người xem có cảm tưởng chứng-kiến một cuộc múa rồng múa rắn vĩ đại.

Nếu Pháp đã bị kiệt quệ vì chiến tranh Ðông-Dương, thì Việt-Minh cũng gần tê-liệt. Việt-Minh đã dành được thắng lợi vì kiên nhẫn hơn và biết dấu kín những nỗi khó khăn nội bộ. Ôn lại chín năm kháng chiến người ta có cảm tưởng như Pháp cứ đánh từ từ, tập rượt cho quân đội Việt Minh mỗi ngày một lớn mạnh, cho tới ngày “học viên” quật ngã huấn-luyện-viên. Hồi kháng chiến mới bùng nổ năm 1946, Việt-Minh chỉ có gậy tầm vông, một vài khẩu súng lục và tiểu liên do Mỹ cung cấp hoặc mua rẻ của sĩ quan trong quân đội Lư-hán. Nhưng ngày nay, quân đội Bắc-Việt là một quân đội tinh nhuệ, võ trang đầy đủ và tinh thần dũng cảm cao đến tột bực.

Trái với một số người vẫn tưởng, quân Nhật không hề giúp võ khí cho Việt-Minh. Trong mấy ngày đầu sau khi họ đầu hàng, quân Nhật quả có ý định giúp Việt-Minh một số võ khí và quân trang, nhưng họ đình ngay khi có tin Võ-nguyên-Giáp, ngày 17 tháng 8, 1945 trong khi kéo quân từ Thái-Nguyên về Hà-Nội đã tấn công đồn binh Nhật ở Thái-Nguyên để “ra oai” với mấy phóng viên báo Mỹ cũng đi theo. Nhật đốt hết kho tàng của họ và trao lại cho quân đội Lư-Hán ở Hải-Phòng 400.000 tấn võ khí đạn dược.

Trong vùng kháng chiến, mọi người đều công nhận rằng, ngoài số võ khí và đạn dược chiếm được của quân Pháp, có 5 vật tư, không thu nhưng mua được của Pháp, đã giúp Việt-Minh chiến thắng. Những vật tư ấy là :

1. Thuốc sốt rét, để quân đội dùng ở những vùng nước độc.
2. Nylon nhẹ, không thấm nước, dùng để che mưa hoặc để bọc quần áo và thức ăn; làm phao bơi qua sông.
3. Vỏ xe hơi cũ dùng làm dép “cụ Hồ” để trèo đèo lội suối.
4. Xe đạp để “thồ” lương thực và đạn dược.
5. Dầu hỏa để thắp đèn.

1 Tôn Tử chủ trương “Thứ nhất công tâm, thứ hai công lương và thứ ba công đồn”, nghĩa là trong mỗi cuộc tấn công phải lo chiếm cảm tình nhân dân địa phương trước, thứ đến triệt nguồn lương thực của địch, và cuối cùng mới tính chuyện tiến đánh đồn địch. Ðối chiếu với binh-pháp Tôn Tử chúng ta thấy Pháp ngày xưa cũng như Mỹ ngày nay chú trọng quá nhiều vào hành-động thứ ba mà coi nhẹ hành-động thứ nhất và thứ nhì, trong khi Việt Cộng cũng như Trung Cộng lúc nào cũng theo đúng lời dậy của Tôn Tử ?

Pháp nhập cảng các thức này vào Việt-Nam, và con buôn mang lậu ra hậu, thường khi có sự thông đồng của các trưởng đồn Pháp.

Chiến tranh Ðông Dương kết liễu ngày 21 tháng 7 năm 1954, khi Pháp và Việt-Nam Dân-chủ Cộng-hòa, cùng với Cam-bốt, Lào, Nga-sô, Trung-cộng, và Anh ký vào bản Tuyên Ngôn Cuối Cùng của Hội Nghị Genève ; đây là bản hiệp định đương nhiên thừa nhận chủ quyền của chính phủ Hồ-Chí-Minh trên toàn miền Bắc Việt-Nam. Trong 5 năm sau đó, tình hình tương đối được yên tĩnh vì Cộng Sản còn bận hoàn thành công cuộc tập thể hóa miền Bắc và huấn luyện những phần tử thân Cộng tập-kết ở miền Nam để tổ chức chiến tranh du kích hiện còn đang tiếp diễn.

Củng cố chính trị

Về chính trị và văn hóa Việt-minh cũng đạt được những tiến bộ tương tự như về quân sự. Năm 1945, 80 phần trăm dân số hãy còn mù chữ, mà đến đầu năm 1950 nạn mù chữ đã hoàn toàn thanh toán. Nhờ mẫu tự La-tinh và cách đánh vần rất hợp lý, nên một người lớn tuổi thường chỉ học độ một tháng là đủ biết đọc biết viết. Muốn bắt dân chúng phải học đọc, học viết, Việt-Minh đặt cán bộ đứng khảo chữ ở cổng chợ, bến đò hoặc ngay giữa đường, có đánh vần đúng mới được đi qua.

Tuy trình độ văn hóa của nhân dân vẫn còn thấp vì nói chung họ học chính trị nhiều hơn là văn hóa, song làng nào cũng có một trường tiểu học, huyện nào cũng có một trường trung học, và có rất nhiều lớp học bổ túc buổi tối cho tất cả những người lớn tuổi.

Tiến bộ về tổ chức chính trị cũng lớn lao vô cùng. Từ một thiểu số viên chức và chuyên viên thiếu kinh nghiệm, đảng Lao Ðộng đã đào tạo được hàng ngàn cán bộ chuyên môn về mọi kỹ-thuật, và một đoàn cán-bộ khổng lồ phụ trách việc kiểm soát đời sống hàng ngày của toàn thể nhân dân. Việc kiểm soát nhân dân . công cuộc vĩ đại nhất của Cộng sản . có thể tạm chia làm hai giai đoạn : giai đoạn “phản đế” bắt đầu từ 1946 và chấm dứt năm 1949 và giai đoạn “phản phong” từ 1950 đến 1956.

Giai đoạn Phản Ðế 1946-1949

Khẩu hiệu của thời kỳ này là “Tổ Quốc trên hết”. Ông Hồ hô hào toàn dân đoàn kết ủng hộ chính phủ kháng chiến chống Pháp. Ðể trí thức bớt nghi ngờ, đảng Cộng sản Ðông Dương tuyên bố tự ý giảI tán, và trịnh trọng giao quyền lãnh đạo chính trị cho Mặt Trận Liên Việt. Quyền tư hữu tài sản được triệt để tôn trọng, và địa chủ vẫn được quyền thu thóc. Có nơi nông dân bị truy tố vì không trả đủ địa tô cho địa chủ. Trí thức được trìu mến, nhiều người được giữ chức vụ cao cấp nếu không có thực quyền thì ít nhất cũng có danh vọng còn thân hào nhân sĩ vẫn được trọng vọng như xưa. Ðể lôi kéo những ngườI khao khát muốn tham gia việc nước, Cộng sản thành lập nhiều đoàn thể chính trị “hữu danh vô thực” như Ðảng Dân chủ, dành cho địa chủ và phú thương ; Ðảng Xã-Hội, dành cho trí thức, và Mặt Trận Liên Việt, dành cho nhân sĩ và bô lão, già không hoạt động nặng nhọc được, nhưng vẫn còn uy thế đối với con cháu. Những tổ chức này thực ra chỉ là một tấm bình phong để Cộng sản nấp sau giật dây. Vì quả thực là bù nhìn, dành riêng cho từng giới, nên chẳng bao lâu mấy đoàn thể nói trên mất hết uy tín đối với dân chúng.

Ðảng Dân chủ do một nhóm sinh viên đại học lập ra hồi Nhật chiếm đóng, đã bị rơi ngay vào vòng kiểm soát của Cộng sản vì tình nguyện hợp tác với Việt-Minh để chung sức chiến đấu chống Pháp và Nhật. Ngày nay Ðảng Dân Chủ đã trở thành một tổ chức hoàn toàn bù nhìn có nhiệm vụ kiểm soát “thành phần tư sản”.

Hai đảng Xã-Hội và Dân-Chủ ngày nay chỉ còn có tên. Còn “Mặt Trận” thì đã đổi tên đến ba lần: từ Mặt trận Việt-minh đến Mặt trận Liên-việt, rồi từ Mặt trận Liên-Việt đến Mặt trận Tổ-qưốc, và cuối cùng từ Mặt trận Tổ-quốc đòi thành Mặt trận Thống Nhất Quốc-gia. Mỗi khi đổi tên thì bản cương lĩnh cũng được thay đổi chúc ít để phù hợp với nhu cầu của tình thế. Có nhiều quan sát viên sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng những bản tuyên ngôn chính thức của các “Mặt trận”, cho rằng có một vài thay đổi thực sự trong đường lối chính sách. Nhưng thực ra sự thay tên đổi dạng này chẳng vì một thay đổi quan trọng nào về chính sách, mà chỉ vì mặt trận đương thời đã mất hết uy tín. Thí dụ như hồi đầu Mặt Trận được gọi là Việt-minh, viết tắt là VM, đọc nhanh thành Vẹm. Không bao lâu câu thành ngữ Việt-Nam “nói như vẹt” được đổi ra “nói như Vẹm”, nghĩa là nói liến thoắng như cán bộ Việt-Minh, rồi từ đó sinh ra những thành ngữ “nói dối như Vẹm, thủ đoạn như Vẹm”. Chữ Vẹm làm cho Cộng-sản khó chịu, nên họ đổI thành Liên-Việt. Nhưng vẫn thói viết tắt Liên-Việt thành L.V, đọc theo lối “truyền bá quốc ngữ” thành “lờ vờ” và quả thật các cụ trong Mặt Trận Liên-Việt lúc nào cũng chỉ hoạt động một cách lờ vờ. Trong giai đoạn đầu còn nhiều tính chất dân chủ, bộ máy chính quyền đã củng cố rất nhiều mặc dầu vì ưa dùng thủ đoạn nên chế độ mỗi ngày mỗi mất uy tín đối với nhân dân.

Giai đoạn Phản Phong, 1950-1956

Việt Minh giả dạng dân chủ cho đến ngày chiến thắng quân Pháp ở Lạng sơn, tháng 9 năm 1950, tiến sát tới biên giới Hoa Việt. Có tin đồn hồi đầu năm 1951 ông Hồ đã bí mật vi hành sang gặp ông Mao và đã bị các lý thuyết gia Trung Cộng phê bình là ông “hữu khuynh”, vì họ cho rằng ông Hồ đã chú trọng quá nhiều đến kháng chiến chống Pháp mà coi nhẹ nhiệm vụ thiết lập chế độ Cộng sản.

Sau khi ông Hồ từ Bắc Kinh trở về, đảng Cộng sản đã gỡ bỏ mặt nạ và xuất hiện với cái tên mới lạ Ðảng Lao Ðộng Việt-Nam (ngày mùng 3 tháng 3 năm 1951). Khẩu hiệu mới của Ðảng là : “Ðưa Phản Phong lên ngang hàng với Phản Ðế”. Trước đó, mọi khẩu hiệu đều nhằm vào chiến tranh chống Pháp, nhưng nay vì chính sách đã thay đổi nên khẩu hiệu cũng phải thay đổi. Nhưng nếu đột nhiên thay khẩu hiệu bằng khẩu hiệu mới thì sợ gây hoang mang mà Cộng sản hết sức muốn tránh, nên họ bắt đầu thay đổi dần dần, nay một chữ, mai một chữ, cho đến khi khẩu hiệu mất hết ý nghĩa cũ. Chẳng hận như khẩu hiệu “Sẵn sàng Tổng Phản Công” năm 1950, đổi thành “Sẵn sàng chuẩn bị Tổng Phản Công” vào năm 1951 ; sang năm 1952 lại giảm xuống “Sẵn sàng Hoàn Thành Chuẩn bị Tổng Phản Công”, và cuối cùng cất biến. Ðến khi phản công thực sự, năm 1954, thì Cộng-sản đã đầy đủ uy quyền để bắt dân chúng phảI tuân lệnh. Vì không còn cần phải “thuyết phục theo đường lối dân chủ” nữa, nên khẩu hiệu kể trên đã trở thành vô dụng.

Hồi khẩu hiệu “Ðưa Phản Phong lên ngang hàng với Phản Ðế” mới xuất hiện, dân chúng không hiểu “Phản Phong” là gì. Nhiều người cho rằng Phản Phong nghĩa là xóa bỏ tàn tích phong kiến còn sót lại trong guồng máy chính quyền nhà nước. Chỉ có cán bộ được huấn luyện ở Trung-Quốc về mới biết rõ Phản Phong có nghĩa là “tiêu diệt giai cấp địa chủ”. Mãi đến khóa chỉnh huấn đầu tiên, nên, năm 1953, danh từ “Phản Phong” mới được định nghĩa rõ ràng (xem phần 4).

Chiến dịch chính trong giai đoạn Phản Phong là chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất (1953-1956); hy sinh hơn nửa triệu người (tức là 4 phần trăm dân số Bắc-Việt). Trước khi phát động chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất long trời lở đất này, đảng Lao-Ðộng đã phát động hai chiến dịch khác để dọn đường trước.

Thứ nhất là chiến dịch thuế Nông-Nghiệp, rập theo mẫu của Trung-cộng, nhằm mục đích bần cùng hóa toàn dân và biến xã-hội Việt-Nam thành một xã hội bần cố. Tiếp theo là cuộc “đấu tranh chính trị” nhằm thủ tiêu “tất cả mọi phần tử phản động đầu xỏ”. Còn chính chiến dịch Cải Cách Ruộng Ðất thì thực hiện làm hai đợt, hoặc hai chiến dịch liên tiếp : chiến dịch “Giảm Tô” và chiến dịch “Cải Cách Ruộng Ðất” thực sự. Sau chiến dịch “Cải Cách Ruộng Ðất” đến chiến dịch “Sửa Sai” với mục đích bình thường hóa tình hình quá căng thẳng sau mấy chiến dịch khủng bố có tổ chức. Mỗi chiến địch đều được sửa soạn trước bằng một khóa chỉnh huấn để chuẩn bị tinh thần cán bộ khỏi bị giao động trước những hành động đẫm máu của chiến dịch. Toàn bộ chiến dịch này chỉ được thực hiện từ mấy năm trước ở Trung-Quốc, và thường được mệnh danh là “chiến thuật Mao-Trạch-Ðông”. Vì tầm quan trọng của các chiến dịch này cũng như sự phản ảnh chủ tâm của các lãnh tụ Cộng sản, chúng tôi sẽ trình bầy mỗi chiến dịch riêng biệt trong các chương sau. Chúng tôi mong độc giả sẽ có một quan niệm tổng quát về toàn bộ chiến thuật mà Mao-Trạch-Ðông đã vạch ra cho Trung-Quốc, và tin rằng có thể áp dụng cho tất cả các nước kém mở mang, như Việt Nam chẳng hạn.

(Còn tiếp)

Bài đã đăng: Mời quý bạn đọc bấm vào đây xem

Phần 1 Cái Vinh & Cái Nhục Của Một Tiểu Nhược Quốc

Phần 3 Chuẩn Bị Thành Lập Chế Ðộ Ðộc Tài

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản: Phần 3: Chuẩn Bị Thành Lập Chế Ðộ Ðộc Tài

Hoàng-văn-Chí – Bản dịch của Mạc-Định

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản  
• Hoàng-văn-Chí

From Colonialism To Communism
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam

• Bản dịch của Mạc-Định

—— o0o ——

PHẦN 3

Chuẩn Bị Thành Lập Chế Ðộ Ðộc Tài
“Thà phụ người còn hơn để người phụ ta”
Phương-châm xử-thế của
Tào Tháo trong Tam Quốc Chí.

Chương 6

BẦN-CÙNG-HÓA TOÀN DÂN

Sau khi ông Hồ vi hành sang Bắc-Kinh về thì hành động đầu tiên của ông là ban hành “Thuế Nông Nghiệp” một thứ thuế đã áp dụng ở Trung-Hoa từ hai năm trước. Cả Trung-Cộng lẫn Việt-Cộng đều khoe khoang rằng chính sách thuế khóa của họ vừa giản-dị vừa hợp tình hợp lý nhất, hơn tất cả mọi hình thức thuế từ xưa đến nay. Kể ra so với các thứ thuế của Pháp ở Ðông-Dương và của Quốc-dân-đảng ở Trung-hoa thì thuế của Cộng-sản quả có giản-dị thật, vì Cộng-sản chỉ đặt có năm thứ thuế: thuế nông-nghiệp, thuế công-thương-nghiệp, thuế sát-sinh, thuế lâm-thổ-sản và thuế xuất-nhập cảng.

Vì Việt Nam là một nước căn-bản nông-nghiệp nên dĩ nhiên thuế nông-nghiệp là thuế chính. Thứ nhì là thuế công-thương-nghiệp đánh lên đầu một số thương-gia và thủ-công-nghiệp kiếm sống theo lối lấy công làm lãi. Thuế sát-sinh cũng chẳng được là bao vì thiếu trâu bò cày nên không được phép làm thịt. Tuy nhiên, mặc dầu thiếu đến nỗi ở nhiều nơi người phải kéo cày thay bò, Việt Minh cũng cho phép “xuất cảng” một số bò đực vào trong vùng Pháp chiếm đóng để đổi lấy một vài thứ hết sức cần-thiết.

Như vậy thành ra có sát-sinh thì chỉ sát sinh trong vùng Pháp kiểm soát và thuế sát-sinh do Pháp thu, không phải Việt Minh thu. Thuế lâm thổ-sản cũng chẳng được là bao, còn thuế xuất-nhập cảng thì thực ra chỉ có trên giấy tờ, vì hồi ấy, Việt Minh chẳng có “cảng” nào cả, nên chẳng có “xuất-nhập”.

Thuế nông-nghiệp và công-thương-nghiệp đánh vào thu-hoạch hoặc lợi-tức, nhưng cán-bộ không hề điều tra thu-hoạch hoặc lợi-tức, chỉ ước-định rồi bắt dân chúng “bình”. “Lợi-tức bình” bao giờ cũng cao hơn lợi-tức thực. Thuế tính theo một số phần trăm lợi-tức và cao đối với tất cả mọi thành-phần nhân dân, không trừ một ai. Ðấy là chủ-tâm của chính-phủ vì đối với cộng-sản đánh thuế không chỉ cốt để thu tiền cho nhà nước mà chính là lợi dụng thuế để công khai bần cùng-hóa những thành-phần khá giả ở thành phố cũng như ở thôn quê. Thực ra, thuế chỉ là một biện-pháp đầu-tiên sửa-soạn cho việc thiết-lập nền vô-sản chuyên-chính.

THUẾ NÔNG-NGHIỆP

Thuế nông-nghiệp là thứ thuế lũy-tiến, nghĩa là đánh từ 5 đến 45 phần trăm tùy theo thu-hoạch nhiều ít.

THUẾ-BIỂU CHÍNH-THỨC của THUẾ NÔNG-NGHIỆP
(Ðăng trong tờ CỨU-QUỐC, số 2080, ngày 6-7-1952)

 

1 Chị đội – Chị nữ đội-trưởng “Ðội Cải-cách Ruộng-đất”
2 Bồi-dưỡng – Bồi-dưỡng lý-luận, giải-thích chính-sách, xui nghe theo đường lối của Ðảng.

Trước kia chính-quyền Việt Minh chi sống về lạm-phát, nhưng sau khi ban bố thuế nông-nghiệp bỗng nhiên trở thành chủ-nhân-ông toàn thể ruộng-đất của nhân dân, biến tất cả trung-nông và bần-nông thành tá-điền của mình. Số phận địa-chủ lại càng đen tối bội-phần. Trên nguyên tắc thì cho đến 1954 địa-chủ vẫn có quyền thu tô, nhưng thực-tế thì họ không thu được hột nào từ 1951 trở đi. Vì phần lớn bần cố nông là tá-điền của họ đã thành ông nọ bà kia trong ủy-ban Hành-chính Kháng-chiến xã nên không một địa-chủ nào có gan giám đòi họ nộp tô mặc dầu họ cứ vẫn phải ráng sức kiếm đủ thóc để nộp thuế nông-nghiệp.

Thiếu thóc để nộp thì họ phải ra chợ đong thêm. Vì trước kia họ đã tích cực ủng-hộ nào là “tuần lễ vàng” nào là “ủng-hộ bộ-đội địa-phương”, nên hầu hết đã hoàn toàn khánh-kiệt. Dần dà họ phải bán đến trâu bò rồi hết trâu bò phải bán đến vòng xuyến, hoa tai, nồi niêu. Vào khoảng từ 1952 đến I954 đồ cổ bán đầy chợ. Một chiếc độc-bình đời Tống bán rẻ hơn một chiếc chậu nhôm buôn lậu tự vùng tề vào.

Một kỳ thu thuế nông-nghiệp là một chiến dịch. Chính-quyền Việt-minh hô hào thi đua nộp nhanh và “phơi khô quạt kỹ”. Vì hồi Nhật thu thóc (hồi Nhật chiếm đóng) cán-bộ Việt-minh xui dân ngâm thóc vào nước cho nặn cân, nên lần này, dân cũng ngâm thóc, cho nặng cân. Nhưng cán-bộ Việt-minh không chịu bị lừa, nhất thiết bắt phải “phơi khô quạt kỹ”. Muốn làm nhục địa-chủ, cán-bộ thu bắt địa-chủ phải gánh thuế đi nộp, nhiều khi cách nhà chừng 15 cây số. Ðến nơi thì cán-bộ cân cho bần-cố-nông trước, còn phú-nông, địa-chủ thì phải chờ hết ngày hết buổi, có khi ngày này sang ngày khác. (Bần-cố-nông được biệt đãi trong mọi trường hợp, tỉ-dụ như ở bệnh-viện, bần cố nông bao giờ cũng được khám bệnh trước mọi người).

Bị phá sản về thuế nông-nghiệp, nhiều địa-chủ tìm cách bán bớt ruộng hoặc đem cúng cho chính-phủ. Nhưng 1953 trở đi thì cấm ngặt không được phép bán, và đồng thời hủy bỏ những vụ bán ruộng đất cho bần-cố-nông. Ruộng đã chót bán cho bần-cố-nông, thì người mua cứ việc giữ ruộng, nhưng ngườI bán phải hoàn lại tiền. Những địa chủ đã hiến ruộng cho chính-phủ, thì chính-phủ cứ giữ ruộng nhưng địa-chủ phải tiếp tục nộp thuế nông-nghiệp. Chỉ riêng những người thành-thị tản cư về nông thôn và theo lời “Cụ Hồ” tậu một vài sào ruộng để “tự lực cánh sinh” và “hòa mình với nhân dân” là được phép hiến ruộng, nhưng muốn “được” nông-hội địa-phương chiếu-cố nhận “giùm cho” thì người hiến ruộng phải hiến thêm trâu bò cày, đầy đủ nông cụ và một số vốn để mua thóc giống.

THUẾ CÔNG THƯƠNG NGHIỆP

Trong mấy năm đầu, Việt-Minh phong tỏa những vùng Pháp chiếm đóng, để ngăn cản không cho quân đội Pháp mua lương-thực và mua vật liệu để sửa chữa lại những nơi bị chiến tranh tàn phá. Vì vậy nên việc buôn lậu giữa hậu phương và vùng tề bị cấm ngặt, và hàng lậu bắt được bị tịch thu và đem đốt trước công chúng, trừ thuốc lá thơm và một vài xa-xí phẩm thì đem biếu cán-bộ cao cấp.

Vì bị Việt-Minh phong tỏa nên Pháp thực sự thiếu lương thực. Lúa gạo phải mang bằng đường thủy từ trong Nam ra, còn thịt phải tải từ Cam-bốt đến Hà-Nội bằng máy bay. Giá sinh-hoạt trong vùng tề cao hơn giá sinh-hoạt trong vùng Việt-Minh kiểm soát rất nhiều. Nhưng chính sách phong tỏa còn gây một ảnh-hưởng khác. Vì hàng hóa công-nghệ không lọt được vào vùng Việt Minh, nên hàng nội-hóa bán rất chạy. Nhiều nhà công nghệ nghĩ cách chế được nhiều mặt hàng tương đối giản dị như vỏ xe đạp, các đồ phụ-tùng xe đạp, một số máy móc đơn sơ, như máy in tay chẳng hạn. Một số chuyên-viên chế được những hóa-phẩm căn bản như acide sulfurique, carbonate de soude, rượu 90 độ, và nhờ những thức này chế thêm được nhiều thức khác. Kết quả là dù bị cắt đứt với thế-giới bên ngoài, dân chúng trong vùng Việt-minh vẫn tự lực cánh-sinh, sống tương-đối đầy đủ. Họ có, nào là sà-phòng, sà-phòng đánh răng, diêm, giấy các-bon, ống tiêm chích thuốc (nhưng không làm được kim), éther, pénicilline nước, vân vân…

Tóm lại, công-nghệ hậu-phương chỉ còn thiếu hai thứ : kim-khí và nguyên động-lực. Nhưng nhờ ở sáng-kiến cá-nhân vấn-đề này cũng giải-quyết được một phần. Máy xe-hơi và máy xe lăn đường, vì không còn đường nữa, dùng để kéo máy tiện, máy cưa v.v… Thác nước thuộc hệ-thống nông-giang biến thành máy thủy-điện và một nhóm kỹ-sư thành-công trong việc xây một “lò cao” sản-xuất mỗi ngày ba tấn gang. Ðặc điểm của lò cao này là chỉ cao có 9 mét, trong khi theo nguyên tắc, lò cao thấp nhất cũng phải cao 13 mét. Một phái đoàn Ðông Ðức tới thăm, vào năm 1954 tỏ ý hết sức thán phục kỹ-thuật của các chuyên viên phụ-trách. Ðường rầy xe lửa cùng “tà vẹt” trở thành một nguồn thép vô tận, vỏ bom napan và xác máy bay bắn rơi biến ngay thành nồi niêu xoong chảo bằng nhôm. Mặc dầu so với mức sống tân tiến, tình hình hậu phương không có gì là “khả quan”, nhưng ngoại trừ công chức bị túng-thiếu vì mỗi tháng chỉ được có mấy chục cân gạo, còn ngoại giả dân chúng đều sống tương đối dễ dàng, không một ai thất-nghiệp. Nhưng chẳng bao lâu Việt-Minh đình chỉ chính sách khuyến khích công nghệ nội hóa, vì sau khi cố-vấn Trung Cộng sang, họ giảng cho Việt-minh hay là nếu có khuyến khích công nghệ tư nhân thì tức là gây mầm cho chế-độ tư-bản. Từ đấy Việt-minh đổi ngược lại chính sách, làm khó dễ những người sản-xuất hàng nội hóa và đồng-thời mở rộng kiểm soát cho hàng Pháp tràn vào. Nhiều thủ-công nghiệp bắt buộc phải đóng cửa vì không thể nào cạnh tranh lại hàng hóa của Pháp, và trong nhiều trường hợp, cả chủ lẫn thợ kéo vào các thị-trấn do Pháp kiểm-soát để kiếm kế sinh nhai, vì từ ngày Việt-minh đình chỉ việc phong-tỏa kinh tế, đời sống trong vùng Pháp chiếm đóng bỗng nhiên phồn thịnh hẳn lên.

Ðể tiến tới xã-hội chủ-nghĩa, chính-phủ Hồ-chí-minh áp dụng hai chính-sách mới : đánh thuế “Công Thương Nghiệp” và thành lập “Mậu-dịch Quốc-doanh”. Dĩ-nhiên Mậu-dịch Quốc-doanh chỉ có nghĩa là chính-quyền nắm độc quyền thương-mại trong toàn quốc.

Về đại-cương thì Thuế Công Thương Nghiệp cũng giống thuế Nông Nghiệp, nhưng cũng có hơi khác về thuế biểu và về cách thức tính thuế. Thuế Công Thương Nghiệp phải nộp hàng tháng, không phải một năm hai vụ như thuế Nông Nghiệp. Thuế Công Thương Nghiệp đánh vào lợi-tức, không đánh vào thu hoạch, và mức tối đa chỉ có 28 phần trăm, trong khi mức tối đa của thuế Nông Nghiệp lên tớI 64,68 phần trăm. Trên nguyên tắc thuế Công Thương Nghiệp có phần hợp lý và nhẹ hơn thuế Nông Nghiệp. Cách tính thuế Công Thương Nghiệp như sau :

1. Ước định số “thu” của mỗi người công thương.
2. Tính số lời, bằng cách nhân số “thu” với một con số “lợi nhuận” do Bộ Tài-chính ấn-định cho từng nghề nghiệp (Thí-dụ lợi-nhuận của nghề bán tạp-hóa định là 30 phần trăm, hàng ấn định là 50 phần trăm . Việt-minh cho rằng làm những nghề ấy thì phải lãi băng ấy).

3. Sau khi tính được lợi-tức của một công, thương gia rồi thì mang bản thuế-biểu do Bộ Tài-chính ấn-định xem với số lợi-tức ấy, họ đứng vào loại nào và phải đóng bao nhiêu phần trăm, đại khái cũng như tính thuế Nông Nghiệp, Thuế Công Thương Nghiệp cùng lũy-tiến, xê dịch từ tối-thiểu 15 phần trăm đến tối đa 28 phần trăm.

Như vậy là muốn tính thuế cho một công, thương gia chỉ cần biết số thu hoạch của họ, vì một khi đã có con số này thì chỉ việc đối chiếu với ban lợi-nhuận và ban thuế biểu của chính-phủ mà nhân lên là tính được ngay. Số phận của mỗi công, thương gia đều do con số thu-hoạch chi phối.

Dưới chế-độ Việt-minh, mỗi công, thương gia phải giữ một cuốn sổ chi thu, ghi chép đầy đủ mọi việc buôn bán. Mỗi lần bán ra một món gì, dù là bán nước, bán trâu đều phải làm ba bản hóa-đơn, giữ một bản, giao cho người mua một bản và nộp cho Sở Thuế một bản. Tuy nhiên những sổ sách và hóa-đơn này chỉ cốt để tiện việc cho chính-phủ kiểm tra, nếu cần, không phải để tính thuế, vì tính thuế là công việc của nhân dân, không phải trách nhiệm của chính-quyền. Dưới chế-độ dân chủ nhân dân, chính-phủ chỉ việc giơ tay thu tiền, còn tính thuế và thu thuế là việc của nhân-dân vì Ðảng cho rằng nhân dân lúc nào cũng “sáng suốt”, không cần đến sổ sách, giấy tờ. Khẩu hiệu lúc bấy giờ là : “Phải hoàn toàn tin ở quần chúng”.

Ðảng giao việc thu thuế cho nhân dân vì Ðảng coi việc nộp thuế là một “hân hạnh” không phải là một “nghĩa vụ” như ở các nước tư-bản. Mỗi công dân phải vui vẻ đóng thuế để góp phần vào công việc xây-dựng xã-hội chủ-nghĩa. Vì đóng thuế là yêu nước nên mọi người đều nói “được đóng thuế” và không ai nói “phải đóng thuế”. Từ nguyên tắc “đóng thuế là một hân-hạnh, một đặc ân” nẩy ra hai nguyên-tắc phụ. Thứ nhất, là không phải bất cứ ai cũng được “hân hạnh” đóng thuế, và thứ hai là nhân dân sẽ sẵn sàng giúp đỡ những người không xứng đáng với “đặc-ân” đó, hoặc chạy không đủ tiền để làm trọn “hân hạnh”. Chúng ta hãy đi sâu thêm vào chi tiết của hai điểm này.

Tại sao được nộp thuế lại là một đặc ân ? Ở dưới chính thể dân-chủ nhân-dân, người công-dân không có quyền tự-do kinh-doanh, và đây là đặc-điểm quan-trọng nhất làm cho chế-độ dân-chủ nhân-dân khác hẳn chế-độ dân-chủ tư-sản”. Muốn mở một công-nghệ hoặc một hiệu buôn thì trước tiên phải nộp đơn xin phép Mậu dịch vì Mậu-dịch kiểm soát tất cả công thương trong vùng. Khi Mậu-dịch cho phép rồi, lại phải làm đơn xin phép Ủy-ban Hành-chính địa-phương, vì có một số nghề mà một số người không được làm. Ðịa-chủ, chẳng hạn, không được phép bán hàng cơm và làm nghề cắt tóc. Ðơn nộp cho ủy-ban Hành-chính, nhưng chi-bộ cho hay không, là quyền bí-thư chi-bộ Ðảng, vì chỉ có Ðảng mới biết rõ thái-độ chính-trị của đương sự. Nếu đương sự được phép mở cửa hàng rồi, mà sau này chi-bộ mới tình nghi là “phản-động” thì công-an ăn mặc thường-phục túc trực trước cửa, hỏi giấy thông hành của tất cả người mọi ra vào. Vì vậy nên ai được “hân hạnh” nộp thuế tức là còn được tự-do kinh doanh, một thứ tự-do quý báu gấp bội tự-do chính-trị mà báo-chí tư-sản vẫn thường ca tụng, vì mất thứ tự-do này thì toàn gia phải chết đói. Chính vì mọi người sợ mất “hân hạnh nộp thuế” mà toàn dân không dám cưỡng lại chính-quyền Cộng-sản.

Nhân dân giúp đỡ như thế nào ? Mặc dầu Ðảng đã giảng dậy rất kỹ lưỡng và nhắc đi nhắc lại là nộp thuế là một “hân hạnh”, lác đác vẫn có những người không hiểu rõ tầm quan trọng của cái “hân hạnh” ấy và không tích-cực nộp thuế như Ðảng đã dặn, không chịu khai đúng con số thu-hoạch, hoặc là không khai đúng với sự ước lượng của cán-bộ. Trong những trường hợp như vậy thì nhân dân trong phố, hoặc trong làng sẽ giúp những người “đảng trí” nhớ lại con số thu-hoạch của mình.

Việc giúp đỡ này thể-hiện bằng hai hình-thức, hai cuộc “bình”.

Bắt đầu là một cuộc họp của tất cả những người cùng hành một nghề trong địa-phương, cùng một xã hoặc cùng một khu phố. Họ mổ xẻ công việc buôn bán của mỗi người rồi lập một danh sách kể từ người thu-hoạch nhiều nhất xuống dần đến người thu-hoạch thấp nhất. Công việc xếp đặt theo thu-hoạch nhiều ít này được gọi là “bình dọc” vì mục-đích chỉ là lập một danh sách “dọc” từ trên xuống dưới, từ người thu-hoạch nhiều nhất đến người thu-hoạch ít nhất. Ðảng nói rằng “bình dọc” như vậy rất đúng vì chỉ có những người cùng hành một nghề mới rõ ai hơn ai kém. Nhưng chủ tâm của Ðảng là bắt những người cùng hành một nghề “bình” lẫn nhau thì họ sẽ vì ghen tị mà tố cáo lẫn nhau không cần phải tra khảo, tự nhiên mọi gian lận sẽ lòi ra hết.

Sau đấu là một cuộc họp thứ hai, nhưng lần này tất cả công, thương gia trong một phố, hoặc trong một xóm đều dự, bất luận là hành nghề gì. Họ thảo luận và bình xem mỗi người trong bọn họ thu-hoạch được bao nhiêu, rồi cuối cùng giơ tay “biểu-quyết” con số. Cuộc bình này gọi là “bình ngang”. Mỗi công, thương gia trong phố, hoặc trong xóm đã biết trước là phố mình, hoặc xóm mình sẽ phải đóng bao nhiêu thuế, nên mọi người đều cố tình “tố” người khác, để người khác phải nộp nhiều hơn thì bản-thân mình có hy-vọng nộp ít hơn. Việc “bình ngang” này mang tới hai kết quả :

Thứ nhất là những người cùng phố hoặc cùng xóm thường hay có chuyện xích-mích hoặc thù hằn lẫn nhau, và thường lợi-dụng cuộc “bình thuế” để trả thù. Thí dụ vợ anh A ngoại-tình với anh B, buôn bán cùng phố. Muốn trả thù anh B đã cho mình “mọc sừng” anh A tố là anh B thu-hoạch rất nhiều. Ðể nại chứng, anh A nói thường thấy chị B đi chợ mua gà, vịt. Ðến khi hội-nghị bàn thuế của anh A, thì em anh B muốn trả thù cho anh mình, đứng lên tố là ngày nào cũng thấy anh A ngồi nhậu cà-phê sữa (cà-phê và sữa được coi là xa-xí phẩm ở Bắc-việt) ở tiệm cà-phê gần nhà mình. Rốt cuộc là thu-hoạch của mọI người đều bị “kích” lên, và nhiều khi sở thuế thu được nhiều hơn con số dự trù.

Kết quả thứ hai là những người cùng phố, cùng xóm không biết hàng xóm láng giềng làm ăn ra sao mà chỉ biết đại khái về lề lối sinh-hoạt. Người nào mà mỗi tuần ăn một con gà, hoặc mỗi sáng uống cà-phê sữa không tránh khỏi những người xung quanh coi là “đại-phú”. Rốt cuộc không ai giám ăn gà và uống cà-phê sữa công khai. Nếu chị B muốn mua một con gà thì chị phải nhét gà xuống đáy rổ, đậy rau muống lên trên, còn anh A, nếu thèm cà phê thì đạp xe-đạp tới một nơi thật xa để uống, hoặc pha dấu trong phòng ngủ, không cho hàng xóm láng giềng ngửi thấy mùi. Vì “bình thuế” cả ngang lẫn dọc nên chẳng bao lâu mọi người đều làm ra vẻ xác xơ. Họ mang những quần áo cũ nhất và rách nhất ra mặc, để râu tóc mọc thật dài, hoặc nhờ vợ hớt bằng kéo. Tiệm cà-phê, thợ may và thợ cạo đều lần lượt đóng cửa.

Ðầu tiên vì sợ bình nên mọi người đều “dấu giầu” nhưng cuối cùng, mọi người đều phá sản thực sự. Sau khi phá sản và đóng cửa tiệm cả chủ lẫn người làm công kéo nhau vào vùng Pháp kiểm soát, để lại hậu-phương mặc sức cho Mậu-dịch xây-dựng thương-mại và công-nghệ xã-hội chủ-nghĩa. Lúc bây giờ toàn thể nhân dân đã trở thành bần cố.

Chương 7

“ÐẤU CHÍNH TRỊ”

Giữa lúc bần dân thiên hạ đương thất điên bát đảo về thuế nông-nghiệp và công-thương-nghiệp, hai thứ thuế mà dân chúng gọi là “thuế thất-nghiệp” – thì Việt-cộng sửa soạn bí mật và bất thình-lình phát-động một chiến-dịch đại quy-mô chưa từng thấy trong lịch sử Việt-nam. Bắt đầu vào giữa tối 23 tháng Chạp âm lịch, ngày lễ ông Táo lên chầu trời, vào đầu tháng Hai dương lịch năm 1953, cuộc khủng bố này có thể ví với cuộc tàn sát Saint Barthélémy trong lịch sử Pháp. Vì Việt Cộng sửa soạn rất bí mật, và phát động rất bất thình-lình nên ngoài đảng viên cao cấp không một ai biết trước kể cả viên chức ngạch trung-ương trong chính-quyền kháng-chiến. Vì cuộc khủng-bố này có tính cách hoàn toàn chính-trị, nên sau này được dân chúng mệnh danh là “đấu chính-trị”. Chữ “đấu” bắt nguồn từ danh từ “đấu tranh”, vì Việt Cộng giải thích đấy là một cuộc “đấu-tranh” của dân-chúng.

Hồi ấy vì máy bay Pháp thường oanh tạc ban ngày nên mọi cuộc họp đều triệu tập vào ban tối, và đúng vào buổi tối hôm 23 tháng Chạp âm lịch, 1954, tất cả các xã đều triệu tập nhân dân đến hội trường để bàn về thuế nông-nghiệp và công-thương-nghiệp. Chương-trình nghị-sự chỉ có một câu : TạI sao nhiều người ngoan cố không chịu nộp thuế, hoặc không nộp đủ.

Sự thực thì mọi người đều đã biết tại sao. Chỉ tại sau hai năm liền, giầu cũng như nghèo, không ai còn có thể chạy đâu ra tiền, thóc lúa, để tiếp tục đóng mãi hai thứ thuế “thất nghiệp” ấy được nữa. Nhưng Cộng-sản đặt ra câu hỏi, không phải vì muốn tìm hiểu sự thực, mà cốt để thực hiện một âm-mưu không dính dáng gì đến thuế.

Trước giờ họp, trong hội-trường đã có sẳn thừng, hèo, gậy, và nhiều dụng-cụ tra tấn khác. Những người thiếu thuế không kể ít hay nhiều, đều bị bắt, điệu ra trước hội-nghị và tra khảo không phải để biết tại sao không nộp được thuế, mà chỉ cần biết kẻ nào đã xui dục không nộp thuế. Chủ-tịch cuộc họp không hỏi lơ mơ “Ai xui mày không nộp thuế ?”, mà hỏi một cách rất rõ ràng “Có phải Thằng Ất (hoặc Thằng Giáp) xui mày không nộp thuế, phải không ? Nói mau ! và tức khắc đánh đập, kìm kẹp, tra trấn cho đến lúc nạn nhân chịu không nổi, đuối sức, chỉ khẽ gật đầu. Nếu không gật đầu, nạn nhân có thể bị tra tấn suốt đêm cho đến chết. Hễ nạn-nhân gật đầu, tỏ ý là Giáp hoặc Ất nào đó quả có xui không nộp thuế thì những người này bị bắt túc khắc. Sự thực thì những người này đã được Việt Cộng ghi tên trong sổ đen ; chủ-tịch buổi họp chỉ việc lần lược chọn từng tên một rồi tra tấn những người thiếu thuế bắt phảI khai đúng tên những người trong sổ, để sẵn trước mặt. Một khi người thiếu thuế đã khai đúng như ý muốn của Cộng-sản thì tức khắc được tha về, không cần hỏi đến nữa.

Những người bị khai . nói đúng hơn là bị buộc vào tội xui không nộp thuế . bị tra tấn một mức gắt hơn và phải trả lời hai câu hỏi : Mày ở trong tổ-chức phản-động nào ?Trong tổ-chức phản-động của mày có thằng… (Bính, Ðinh) không ? Về câu hỏi thứ nhất thì người bị tra có thể bịa ra bất cứ đảng phái nào, khai là đảng hươu đảng vượn gì cũng được. Có người tự nhận là đảng Bảo-Ðại, đảng Việt-gian, và có một nông dân cuống quá, nghĩ không ra đảng, khai ngay “Ðảng Cộng-sản” vì từ bé anh ta chỉ nghe nói lờ mờ có Ðảng Cộng sản không rõ là cách mạng hay phản-động. Về câu hỏi thứ hai thì người bị tra không được phép khai lung tung, phải khai đúng tên mà chủ-tịch hội-nghị đã mớm cho. (Tuy nhiên đây chỉ là quang cảnh trong những ngày đầu, sau nầy sẽ có nhiều sai lạc mà chúng tôi sẽ trình bày ở đoạn sau).

Tất cả những người “phản động” có tên trong sổ đen lần lượt “bị khai”, bị bắt và bị tra tấn. Họ thuộc đủ thành-phần, không cứ giầu nghèo, và sự thực thì cũng không phải “phản động”. Nói cho đúng thì phần đông là những người có thái-độ lừng chừng, vì những người thật sự chống đối với Việt Cộng thì, hồi năm 1953, hoặc đã bị tiêu diệt, hoặc đã bỏ chạy vào vùng Pháp chiếm đóng. Ðối với Cộng-sản thì lừng chừng cũng nặng tội như phản động. Bài thơ sau đây của Xuân Diệu, nhà thơ bồi bút của Cộng-sản chứng tỏ điều đó.

Anh em ơi, quyết chung lưng đấu cật.
Ðấu tranh tiêu diệt tàn hung tủ thù
Ðịa-hào, đối-lập ra tro
Lưng chừng, phản-động đến giờ tan xương.

Tất nhiên khi thảo mấy vần thơ trên, không phải là “Nàng Thơ” đã gợi ý cho Xuân Diệu, mà chính là Ðảng đã ra lệnh, vì Ðảng quyết tâm đánh tan xương những phần tử phản-động hoặc lừng chừng không chịu theo giặc mà cũng không tích-cực theo Ðảng. Quả thực là nhiều người đã bị tan xương, đúng như lời của nhà thơ Xuân Diệu, vì hài cốt họ không còn nguyên vẹn sau khi bị đánh chết. Nói về lối tra tấn thì thường có mấy phương pháp điển-hình, xã nào cũng áp dụng. Ðại để như sau :

Nạn nhân phải quỳ, hai tay giơ lên đỡ một thùng đá nặng đặt ngay trên đầu.

Nạn nhân bị treo hai chân, hoặc hai tay vào một sợi thừng vắt qua xà nhà. Một lúc lại kéo lên, kéo xuống, vừa đánh vừa hỏi, thỉnh thoảng buông rơi “cái bịch” xuống đất.

Quấn giẻ tẩm dầu vào hai ngón tay cái và đốt.

Vì mấy hình thức tra tấn này được áp-dụng trong toàn thể vùng Việt-minh kiểm soát, nên dư luận ngờ rằng Ðảng đã quy-định như vậy. Có người nói rằng những cực hình này đã áp-dụng trong các cuộc đấu-tố bên Trung Quốc và do các cố-vấn Trung Cộng nhập cảng vào Việt-nam.

Trên đây chỉ là những kiểu tra tấn “phổ thông” khắp mọi xã, nhưng cũng có nhiều xã áp-dụng những kiểu tra tấn “đặc-biệt” do sáng-kiến địa-phương nghĩ ra. Ở một làng nọ, nạn nhân bị bỏ vào rọ dìm xuống nước một vài phút, lôi lên để hỏi, chưa chịu nhận tội, lại dìm nữa cho kỳ nhận mới thôi. Ở một làng khác, cán-bộ mượn một cái “ê-tô” của một hiệu chữa xe-đạp, kẹp ngón tay người bị tra vào giữa hai má ê-tô, và cứ hỏi một câu mà chưa chịu trả lời lại quay một vòng.

Ðiều đáng chú ý là đảng-viên và cán-bộ đảng không trực-tiếp nhúng tay vào các vụ tra tấn này. Họ giao công việc cho “cốt-cán”, vì cốt-cán không phải là người của Ðảng và của Chính-phủ. Như vậy là cốt để sau này. Ðảng có thể ngang-nhiên phủ nhận mọi trách-nhiệm và, hơn nữa, đỗ hết cả tội lỗi vào đầu nhân-dân. Câu chuyện sau đây có giá-trị điển-hình về thái-độ kể trên.

Một cô giáo “cấp 1” ra cho trẻ em trong lớp một bài luận, đề như sau : “Các em hãy tả một ’đấu’ trong xã các em”. Lũ trẻ em cứ thực tình tả nào là bắt người, đánh, trói và tra tấn, và không quên kết luận bằng những câu ca-tụng đường lối sáng suốt đúng đắn của Ðảng và của “Bác Hồ”. Nhưng mấy ngày sau Ðảng đã chính-thức tuyên-bố là Ðảng không dính dáng dến những vụ tra tấn này và đấy chỉ là “Nhân dân tự động đấu-tranh chống phản-động”. Vì Ðảng đã phủ nhận vai trò của mình, nên hôm trả bài, cô giáo phải làm bộ phê-bình học-sinh là tả không đúng sự thực. Cả lớp bị mắng là “nói điêu” rán gân cổ cãi lại cô giáo, nói chúng đã trông thấy tận mắt và một vài em lại kể rành mạch là đã thấy cán-bộ chặt tre làmgậy và mang thừng chão đến hội trường từ buổi chiều, trước khi triệu-tập cuộc họp.

Vụ “đấu” này kéo dài trong nửa tháng và đêm nào, làng nào cũng có người bị đánh chết. Bắt đầu đêm hôm 23 tháng Chạp, nghĩa là một tuần trước Tết, vào giữa lúc thiên hạ đương lo cúng ông bà ông vải và đón mừng Năm Mới. Vì vậy nên mọi cuộc sửa soạn đều bị bỏ dở, và nhà nào nhà nấy im hơi lặng tiếng, tối đến cũng không dám thắp đèn. Có người nhận xét súc vật thấy người sợ cũng sợ lây ; gà không gáy chó không sủa. Trong mấy ngày đầu, mọi việc đều tuần tự như tiến, theo đúng kế hoạch của Ðảng đã vạch sẵn, Những người có tên trong sổ đen đều lần lượt bị “khai” và tra tấn. Nhưng một khi phong-trào đã được “đẩy mạnh”, cán-bộ trở thành say sưa với quyền sinh quyền sát nên coi nhẹ cuốn sổ đen, vì vậy nên hễ khai ai bắt nấy, đưa đến tình trạng bất cứ ai cũng có thể bị bắt và bị tra tấn. Ðảng không kìm hãm nổi và khắp mọi nơi cuộc khủng-bố trở thành “lung tung”. Những giới-hạn mà Ðảng đã quy định trở thành vô giá-trị và khắp nơi khắp chốn chỉ nghe nói đánh-đập, tra-tấn, chết chóc. Sở dĩ phong trào trở nên hỗn loạn là lại hai nguyên nhân sau :

1. Theo lời Ðảng dặn, cán-bộ giao việc đánh đập, tra tấn cho cốt-cán. Nhưng trong mỗi xã chỉ có một số ít cốt-cán, mà nhiều người trong bọn ngần ngại không muốn thẳng tay đánh-đập bà con trong thôn xóm, đôi khi là anh em, chú bác, cô dì. Hơn nữa đánh lắm cũng mỏi tay, nên cốt-cán phải tuyển mộ ngừơi khác giúp bớt phần việc. Nhưng trong xã-hội Việt-nam tìm được những người tình-nguyện làm những việc ác-đức này không phải là chuyện dễ, nên rốt cuộc, những người sẵn sàng tiếp tay cho cốt-cán đều là những lưu-manh vô-lại trong nông-thôn. Vì là lưu-manh nên phần đông có “thành-tích bất hảo”, hoặc đã trốn “dân công”1 hoặc đã ăn trộm lúa kho hoặc có phạm một tội nào tương tự mà chính quyền chưa hỏi đến. Bây giờ “cờ đã đến tay” nên chúng ra sức “phất” rất mạnh, đánh đập bất cứ ai để ra oai vớI nhân dân và để chuộc tội với Ðảng. Bỗng nhiên đương “thằng” trở thành “ông” chúng ra tay đánh đập “phản-động” để không còn ai có thể quy chúng là phản-động được nữa. Ðánh phản-động tàn nhẫn như vậy, tất nhiên là căm thù với phản-động, và không phải là phản động. Hồi mấy “thằng” lưu manh trở thành “ông” có người đặt mấy câu vè như sau :

Trời làm một hội lăng-nhăng
Thằng hóa ra ông, ông hóa ra thằng.
Trời làm một hội lông-nhông
Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.

Tình trạng trở nên hoàn toàn hỗn loạn vì bất cứ nạn-nhân khai ra ai chúng cũng bắt đánh. Chúng chỉ cần đánh để lấy lòng Ðảng và “lấy le” với nhân dân, làm cho mọi người sợ chúng, không giám khai ra chúng. Vì thất học nên chúng chẳng hiểu “tư-bản”, “đế-quốc” là gì, và đối với chúng, mọi người lương thiện thường khinh rẻ chúng đều có thể coi là “phản-động”cả.

2. Nguyên nhân thứ hai chỉ là hậu quả của nguyên nhân thứ nhất. Trong thời kỳ đầu người bị tra không phải tốn công nghĩ ra tên người khác để khai là đồng đảng vì hồi ấy cốt-cán còn lãnh đạo công việc tra trấn nên lúc nào cũng sẵn sàng “mớm” tên cho mà khai. Trái lại đến lúc lưu-manh xông ra đánh đập thì không còn ai lưu ý đến sổ đen và bất cứ ai bị “khai” cũng bị đòn như mọi người. Mọi người đều nhận thấy hai điều : khai càng sớm càng đỡ đòn và khai ra bất cứ ai cũng được. Không ai bảo ai, mọi người đều tự đặt câu hỏi : “Nếu đêm nay mình bị đánh thì nên khai ra ai, cho đỡ bị đòn ?” Có người lý-luận rằng muốn cho Ðảng chóng đình chỉ cuộc “đấu” thì nên lợi dụng tình trạng, khai ngay cán-bộ hoặc bà con thân thích của cán-bộ và đảng-viên. Quả nhiên những đảng-viên bị khai cũng bị bắt và tra-tấn như các “phản-động thường”. Các chi-bộ cộng sản không có thể can-thiệp vì khẩu-hiệu Ðảng đã nêu ra là : Phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh chống phản-động. Ðảng cũng đã ra lệnh cấm không một cá-nhân nào hoặc một cấp-bộ nào được phép can-thiệp. Thế là đảng-viên trở thành nạn~nhân, đúng câu thành-ngữ Việt-Nam “âm binh quật lại phù thủy”.

Trong một cuộc “đấu” người bị tra hoảng quá, mất hết tinh-thần. Khi bị hỏi “trong tổ-chức phản-động của mày có những ai ?” giơ tay chỉ ngay ông chủ tọa phiên họp. Ông chủ tọa bị lôi xuống và bị đánh tức khắc. Sau đó hội nghị tạm ngưng vì không ai nhận chủ-tọa buổi họp.

1 Ði dân công tức là đi làm phu khuân vác, đào sông, đắp đường, không khác đi làm “cỏ vê” ngày trước.

Ðến ngày thứ 15 thì Ðảng nhận thấy tình hình trở nên quá nghiêm trọng và điện từ trung ương về các tỉnh ra lệnh đình chỉ ngay tức khắc. Nhưng điện-văn cũng nói rõ phải giam giữ những người mà “quần-chúng sáng suốt” đã tố cáo là “phản-động”.

Lệnh giam giữ những nạn nhân của cuộc “đấu” chứng tỏ Ðảng đã có dụng tâm từ trước. Ðảng muốn tạm thời gạt bỏ ra ngoài xã-hội những phần-tử mà Ðảng ngờ có thể chống-đối chính sách sau này của Ðảng : chính sách Cải Cách Ruộng Ðất. Quả thực, những người bị khai là phản-động bị giam trong các trại tập-trung mãi đến phong-trào Sửa Sai, năm 1956, mới được tha.

Trong vụ “Ðấu Chính Trị” trung bình mỗi xã có từ ba đến năm người bị đánh chết, hoặc vì uất ức phải tự tử trong số có một bộ-trưởng chính-phủ là ông Ðặng-văn-Hướng. Ông Ðặng-văn-Hướng nghỉ phép về thăm nhà thì gập phải vụ “đấu”. Vì “Bụt nhà không thiêng” nên cán-bộ xã không nhận thấy ông là “bộ-trửởng” chỉ thấy ông là “một tên phản động” nên mang ra “đấu”. Trong khi ấy thì từ ông Hồ cho đến các bộ-trưởng khác không ai đoái-hoài đến số phận của ông. Ông không bị đánh chết nhưng ông anh ruột bị, và sau đó cả hai ông bà thắt cổ tự tử. Việc đáng chú ý là ông Hương là thân-phụ Ðại-tá Ðặng-văn-Việt, nổi tiếng là “Anh Hùng Ðường số 4” vì mấy năm trước Ðại-tá Việt đã chiến-thắng quân-đội Pháp trong trận Cao-Bằng Lạng-Sơn.

Trong khi cuộc “đấu” diễn ra ở khắp thôn xã thì ở các thị-trấn cũng có “đấu” nhưng với hình-thức nhẹ hơn. Lý do là vì những người buôn-bán ở các thị trấn mới thành-lập là người tứ xứ, không quen biết nhau nên không có hận thù. Những thị-trấn này chỉ là những chỗ buôn bán nhỏ, vì những thành-phố lớn đã bị Cộng-sản phá trụi, theo chính sách tiêu thổ kháng chiến chống Pháp. Việt-cộng lấy cớ là phá hủy thành-phố để không cho Pháp chiếm đóng và lập căn cứ nhưng chủ tâm của Việt-cộng là muốn phá-sản giai-cấp “tư-sản thành-thị” mà Cộng-sản coi là khó cai-trị. Những thị-trấn nói trên chỉ là những dẫy nhà lá thường dựng ở mấy ngã-tư đường nhiều người qua lại. Chủ-nhân là những người trước kia sinh-nhai ở thành-phố, nay mất hết cơ nghiệp phải tản cư về thôn quê, nhưng không làm ruộng quen nên phải dựng lên một túp lều nhỏ để buôn bán chút đỉnh, một vài thứ hàng lặt vặt, mong qua ngày đoạn tháng.

Nói chung thì dân thôn quê phải mất một tuần mới vỡ lẽ là càng nhận tội sớm bao nhiêu thì càng đỡ đòn bấy nhiêu. Trái lại, dân thị-thành vì “láu” hơn, nên ngay buổi đầu họ đã tìm ra mánh lới này. Vì vậy nên ở các thị-trấn có nhiều người chưa bị một cái bạt tai đã vội vàng quỳ gối thú tội vanh vách, nhưng họ cũng được may mắn là những “tội” họ buộc lẫn nhau đều là những tội không lấy gì làm “phản động” lắm. Vì thiếu “phản động” nên chi-bộ Ðảng ở các thị-trấn không thể “đào” đâu cho đủ “phản động” để kéo dài cuộc “đấu” cho trọn hai tuần. Kết quả là cuộc lùng bắt “phản động” trở thành cuộc truy-nã những kẻ ưa dùng xa-xí phẩm, hàng ngoại-hóa. Ăn mặc tươm tất, hoặc dùng xáp bôi đầu chẳng hạn cũng bị quy là “trọng tội”. Cán-bộ đón các đầu đường, hễ ngửi đầu thấy mùi xáp thơm là bắt phải gội ngay tại chỗ, bằng nước rửa bát để sẵn gần đấy. Nhiều anh trông thấy quang cảnh như vậy, vội vàng “xung phong” xin gội đầu bằng nước rửa bát ngay để tránh khỏi bị đòn. Nhiều người ưa ăn sang mặc đẹp như mấy bà vợ bác-sĩ (Bác-sĩ Nguyễn-bát-Can . trước kia là Dr Pascal Nguyễn) cũng bị mang ra “đấu” và hưởng mấy bạt tai.

Cuộc đấu ở nông-thôn và ở thành-thị phát triển theo hai hướng trái ngược nhau. Trong khi ở nông-thôn, cuộc khủng-bố cứ mỗi ngày một kịch-liệt hơn cho đến khi tình trạng trở thành hoàn toàn hỗn loạn, thì ở thành-phố chẳng mấy chốc cuộc “đấu-trang chống phản-động” biến thành một chiến-dịch vớ vẩn, “đấu-tranh chống lề lối sinh hoạt tiểu-tư-sản”. Nhận thấy như vậy nên thực tế đã có người nhanh chân bỏ nông-thôn chạy vội ra thành-phố náu ẩn. Cũng vì ở thành-phố thường ít tính chất bạo-động hơn ở nông-thôn, nên dưới chế-độ cộng-sản dân chúng luôn luôn tìm cách “chuồn” ra thành-phố và do đó chúng ta thường thấy chính quyền cộng-sản ở Bắc Việt và ở Trung Cộng chẳng hạn, thỉnh thoảng lại “giải về nguyên quán” những người tản-cư trái phép từ nông-thôn ra thành thị.

Sau cuộc “đấu chính-trị”, ông Hồ có viết một bức thư “Xin lỗi đồng-bào” gửi cho tất cả các xã và mọi người đều phải học-tập. Trong thư, ông nhận chính-phủ và Ðảng đã thiếu sót trong việc lãnh-đạo khiến nhiều nơi quần chúng đã khinh thường luật-pháp, có nhiều hành-động trái với chủ-trương nhân-đạo và khoan-hồng của Chính-phủ và của Ðảng. Cán-bộ kể chuyện cho dân chúng nghe là khi viết bức thư “Xin lỗi đồng-bào” ông Hồ bực quá, chảy nước mắt. Có lẽ câu chuyện không đến nổi hoàn toàn bịa đặt vì mọi người đều biết ông Hồ đóng trò rất tài tình, muốn cười muốn khóc và ngay cả muốn hôn lúc nào cũng được. Hồi viếng thăm Ấn-Ðộ và Indonesia, những nơi mà nam nữ còn đương “thụ thụ bất thân”, ông Hồ cứ tự-nhiên ôm các bà các cô hôn đại. Vì vậy nên năm 1959, báo chí Djakarta tặng ông biệt-hiệu “Vị chủ-tịch thích hôn” (Presiden Pentjium).

Sau khi xin lỗi đồng-bào, ông Hồ ra lệnh cho các ủy ban xã báo-cáo lên cấp trên những vụ quá đáng. Ðồng thời các ủy-ban cũng phải lập danh-sách những người sáng suốt đã nhận thấy những điểm sai trong chiến-dịch và đã cố gắng ngăn cản.

Có nhiều người, phần đông là đảng-viên cấp dưới, quả thực đã xa lánh phong trào, và có một số đã chạy lên huyện lên tỉnh, tìm cách cứu gỡ cho thân nhân. Sau khi lập thành danh-sách đưa lên tỉnh, những người này được tỉnh-ủy mời lên để ban khen, nhưng lên đến nơi họ được tống đi các trại “quản-huấn” để vừa lao-động vừa học-tập lại những nguyên tắc bất-khả sai-lạc của chủ-nghĩa Mác-xít Lê-ninnít. Mãi ba năm sau, nhân dịp chiến-dịch Sửa Sai, tiếp theo chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất họ mới được tha về. Ðây là một thí-dụ điển-hình chứng tỏ chủ-trương của Ðảng là bắt nhốt ngay cả những đảng-viên mặc-dầu trung-thành với Ðảng, nhưng không tán-thành chính-sách khủng-bố của Ðảng.

Một tháng sau khi ông Hồ đã khóc và xin lỗi đồng bào thì những cán-bộ đã phát-động chiến-dịch ở Bắc-Việt lên đường vào Khu V (miền Nam Trung-việt) để phát động một phong-trào in hệt. Ði theo bọn họ vẫn có mấy cố-vấn Trung-quốc quê ở Hồ-nam.

Ảnh-hưởng trực tiếp của cuộc “đấu sơ bộ” này là tất cả các thành-phần trong nhân dân đều sợ oai của Ðảng. Sự thực, trước cuộc “đấu” Ðảng đã mất rất nhiều uy tín. Nhiều nông-dân bị bom đạn của Pháp tiêu hủy nhà cửa đã ngang nhiên oán trách “Cụ Hồ”, và hàng ngàn dân-công gánh gạo tiếp-tế bộ-đội đã làm reo bỏ về, quẳng gạo ra hai bên đường. Hồi Ðảng còn rút lui vào bóng tối sau khi tuyên-bố tự giải tán, dân quân một xã nọ đã vây bắt một chi-bộ cộng-sản đang hội-họp, lấy cớ là hội-họp trái phép.

Sau chiến-dịch khủng-bố, tình-trạng thay đổi hẳn. Không những không ai giám từ-chối không đi dân-công, mà trái lại, hàng ngàn người xung-phong đi ngay. Thuế khóa cũng chỉ thu trong vài giờ là xong ngay.

Nhiều người nhận thấy như vậy cho rằng Ðảng đã áp-dụng chính-sách khủng-bố để thu thuế cho nhanh và bắt dân-công cho dễ. Nhưng thực ra như chúng tôi sẽ trình bày về sau, Cộng-sản phát động chiến-dịch khủng-bố với hai mục-đích khác. Một mục-đích dài-hạn là dọn đường cho chiến-dịch Cải-cảch Ruộng-đất sắp tới (Xin xem Phần 5) và một mục-đích tức thời là thị uy với toàn thể nhân-dân không kể giàu nghèo . và thanh-trừng những phần-tử : mặc-dầu tham gia kháng-chiến chống Pháp, nhưng tình-nghi là không chấp-nhận chế-độ cộng-sản.

Cuộc “đấu chính trị” do Trung-ương Ðảng phát-động, kéo dài trong nửa tháng, gây không biết bao nhiêu tang tóc, nhưng sau khi ông Hồ đã viết thư “xin lỗi đồng-bào” thì tình hình ở nông-thôn lại tương-đối được ổn-định. Những người chạy trốn ra thành-phố lần lượt trở về làng. Cán-bộ làm ngơ không hỏi tới và để yên cho tự-do sinh hoạt trong khoảng vài tháng.

Nhưng “đấu” rồi, Ðảng còn một công-tác khác cần phải làm. Tức là chứng tỏ trước nhân dân là dù sao lời dậy của Bác Mao vẫn đúng. Bác Mao đã nói : “Quần chúng bao giờ cũng sáng suốt” và “Nông dân có thể lãnh-đạo được Cách-mạng vô-sản”. Nhưng cuộc “đấu chính trị” quả đã gây nên nhiều ảnh-hưởng tai hại. Nhiều người trước kia nhiệt-liệt ủng-hộ cộng-sản, nay bỗng nhiên hết tin-tưởng. Họ nhận thấy ông Hồ quá lệ thuộc vào ông Mao đã nhập cảng vào Việt-Nam nhiều hành động dã man mà từ ngàn xưa sử sách Việt Nam chưa từng chép, và hiện nay không một dân-tộc văn-minh nào có thể dung thứ được. Họ cũng nhận-định là Cộngsản, mặc dầu đã nắm trọn quyền trong tay, mà còn dùng mánh lới “phát-động quần chúng” để trừng-trị đối-phương thì thế tất sau này không bao giờ Cộng-sản có thể áp-dụng những biện-pháp công-bằng và nhân-đạo để trị dân. Những người còn giữ được lý-trí . mà thực sự thì nhiều người đã mất vì “học tập
chính trị” quá nhiều . bắt đầu so sánh chế độ cộng-sản với chế-độ thực-dân ngày xưa. Họ công-nhận dưới chế-độ thực-dân, tuy không có công-bằng và tự-do, nhưng ít ra cũng có một hình-thức pháp-lý nào đó. Chính-quyền thuộc-địa cũng giết, nhưng giết bằng máy chém, không giết bằng “phát động quần-chúng”.

Ngay những đảng-viên trung-thành cũng bắt đầu ngờ vực khả năng lãnh-đạo của nông-dân. Họ tự hỏi nếu gây căm-thù, rồi “phóng tay phát-động nông-dân” thì liệu nông-dân sẽ đưa cách-mạng tới đâu? Họ vẫn biết một xã-hội mà người giầu đá đít người nghèo là một địa-ngục, nhưng họ không tin rằng những kẻ kẹp tay thiên-hạ vào “ê-tô” để vặn có thể xây dựng được thiên-đường trên mặt trái đất.

Ðể đánh tan luồng tư-tưởng nguy-hại này, Cộng-sản áp-dụng hai biện-pháp một cho những người có học và một cho dân chúng thiếu học :

1. . Ở mỗi tỉnh đều thành lập toà án quân sự để xử tội những “Việt gian” bị bắt trong vụ “Ðấu chính trị”. Mục-đích của Cộng-sản là để chứng minh cho dân-chúng trông thấy rằng mặc dầu “quần chúng đã tự động”, sự thực quần-chúng vẫn sáng suốt, vì trong số những người họ “tố”, quả thực có nhiều “Việt gian” lợi hại, làm tay sai đắc lực cho Pháp.

2. . Ðảng tổ-chức một chiến-dịch Cải-tạo Tư-tưởng cho toàn thể đảng-viên và cán-bộ để giải thích cho họ hiểu là “phóng tay phát-động quần-chúng”, mặc dầu có nhiều sai lầm, nhưng tựu-trung vẫn là một chính-sách rất “hợp tình, hợp lý”. Vì hai biện-pháp kể trên bao gồm trong “chiến-thuật Mao-Trạch-Ðông”, nên chúng tôi sẽ cố gắng trình-bầy cặn kẽ trong những chương sau.

Chương 8

DANH-SÁCH VIỆT-GIAN

Những người bị bắt và bị đấu tố trong cuộc “Ðấu tranh chính-trị” mà may mắn còn sống sót, thì bị đưa vào trại giam để công-an điều tra thêm. Vài tuần sau công-an tuyên bố là trong số những người này quả có nhiều “Việt-gian” lợi hại, có chân trong một tổ chức bí mật, làm gián-điệp cho Pháp.

Trong năm 1951, nghĩa là hai năm về trước, Pháp có bỏ bom phá tan hệ thống dẫn-thủy nhập điền trong vùng Việt-minh kiểm-soát. Nhớ lại vụ oanh tạc này, Ðảng được dịp tuyên bố là chính những “Việt-gian” mà nhân dân đã “lột mặt” đã xui Pháp ném bom phá hủy các đập nông-giang. Ðảng còn nói rằng bọn họ đã vẽ địa-đồ các đập nước và các cầu cống và chuyển giao cho Pháp. Rõ ràng là một sự vô cùng phi-lý vì không có một người Việt-nam nào không hiểu rằng những cống và đập đó đều do Pháp xây-dựng và toàn bộ bản-đồ Việt-nam và Ðông Dương đều do Pháp vẽ. Nói rằng Pháp quên không biết đập ngăn nước khổng lồ họ xây ngày trước bây giờ nằm vào chỗ nào và phải nhờ “Việt-gian” chỉ điểm mới nhớ ra thì cực kỳ khôi hài. Nhưng đối với cộng sản thì phi-lý không phải là một trở ngại cho tuyên truyền. Họ kinh nghiệm rằng đối với nông-dân chỉ việc nhắc đi nhắc lại một lý-luận thô sơ dễ hiểu thì dù phi-lý đến đâu cuối cùng nông dân cũng nhập tâm cho là thực. Ðặc biệt là nói về thực-dân Pháp và đế-quốc Mỹ thì kể hươu kể vượn thế nào cũng được, vì nhiều nông-dân suốt đời không hề thấy một người Pháp hoặc một người Mỹ. Một trung-đội trưởng Việt-minh sau khi thắng trận Ðiện Biên Phủ về Hà-NộI hỏi dân thủ-đô có phải người Mỹ da đỏ hồng hào không. Ý hẳn anh ta chỉ nghe nói bên Mỹ có một chủng tộc thường gọi là Peaux Rouges. Ðối với trình độ kiến-thức như vậy thì dĩ-nhiên càng lý-luận giản-dị bao nhiêu, dân chúng càng ưa nghe bấy nhiêu.

Mỗi tỉnh đều đệ lên trung ương một danh sách những kẻ “phản động” và sửa soạn xử-án công khai. Trong mỗi danh sách đều có những “thành-phần điển-hình” : một địa-chủ giầu nhất, một vị hòa-thượng, một linh-mục, một vị khoa cử và một cựu quan lại.

Trong khi chờ phiên tòa xử thì các can-phạm phải điệu đi từ trại giam này đến trại giam khác, qua hết làng này sang làng khác, như kiểu một gánh “xiếc” mang thú dữ đi quảng cáo trước khi biểu diễn buổi đầu. Chân họ bị xiềng và tay họ bị trói bằng một chiếc thừng dài, buộc cánh tay người đầu đoàn cho tới cánh tay người cuối cùng. Họ khạng nạng đi giữa ban ngày, dưới mặt-trời tháng năm, tay bị xích nhưng cũng cố nâng xiềng khỏi mặt đất cho dễ đi. Tiếng xiềng chạm nhau kêu “leng keng” rất xa và rất rùng rợn vì là một thứ tiếng mà thiên hạ chưa từng nghe bao giờ.

Phiên tòa đã xếp đặt gần xong và các vị thẩm phán đã được cấp trên chỉ định thì bỗng nhiên có lệnh đình lại. Sau đó có tin đồn là các “cố vấn Trung-quốc” xét thấy danh sách phản động chưa được đầy đủ. Họ nói danh sách còn thiếu một loại đại phản-động mà bên Trung-quốc gọi là “Tư-sản Mại-bản”. Theo lý-thuyết của ông Mao, một lý-thuyết mà các đồ-đệ của ông coi là một cống hiến vĩ-đạI, giai-cấp tư sản ở các nước kém mở mang chia làm hai loại : tư-sản dân-tộc, tức là những người công-nghệ và tư-sản mại-bản tức là những người xuất-nhập cảng. Hai loại tư-sản này có hai thái-độ chính-trị khác nhau, vì cách thức kinh doanh của họ khác nhau.

Tư-sản dân-tộc hay công-nghệ bản-xứ chế-tạo hàng nội-hóa nên phải cạnh-tranh gắt gao với tư-sản ngoạI-quốc. Vì vậy nên họ có tinh-thần yêu nước một phần nào, và sẵn sàng hợp tác với cộng-sản để tranh-đấu dành độc-lập. Cộng-sản để yên cho họ sống từ thời kỳ cải-cách ruộng đất cho đến thời kỳ hợp tác công-nghiệp. Trong khi ấy họ vẫn làm chủ nhà máy của họ, dưới sự kiểm soát nửa kín nửa hở của công-đoàn. Ở Trung-Hoa và ở Bắc-Việt chế-độ này được duy-trì trong hai năm.

Thành phần tư-sản mại-bản thì ngược lại sống nhờ vào tư-sản ngoại qưốc nên không có mảy may tinh thần yêu nước. Quyền-lợi của họ bị ràng buộc vào quyền lợi của tư-sản ngoại-quốc nên họ chỉ là tay sai của đế-quốc. Vì vậy nên họ bị xếp là “Kẻ Thù Số Hai của Nhân Dân” (Ðịa-chủ là kẻ thù số Một). Nhưng muốn quy một người này là tư sản mại-bản, theo đúng nghĩa của ông Mao-Trạch-Ðông thì phảI tìm thấy ở người ấy hai điểm. Một là tư-sản và hai là mại-bản, tức là buôn bán xuất-nhập cảng. Vì vậy nên khi Trung Ương bắt các ủy-ban tỉnh phải lập danh sách tư-sản mại-bản, ủy-ban tỉnh phải kê khai một số người trong địa-phương có thể tạm gọi là “tư-sản” và có buôn bán hàng ngoạI-quốc. Nhưng kiếm được những người đầy đủ hai điều-kiện kể trên quả là một việc rất khó vì hồi ấy chẳng còn ai ở hậu-phương có thể tạm gọi là tư-sản mà xuất-nhập cảng cũng hoàn toàn không có. Từ trước Việt Nam vốn dĩ đã chẳng có bao nhiêu tư-sản, mà nếu có một vài người thì họ đều ở lại Hà-Nội với Pháp. Thật đúng như lời ông Mao, hạng người này quả là tay sai của tư-sản ngoại quốc và luôn luôn cấu kết với thực-dân đế-quốc. Một vài tư-sản vào loại kém, lúc đầu có chạy ra hậu-phương nhưng chỉ ít lâu sau họ cũng trở về thành. Chỉ có một số “phú-thương” chịu khó ở lại hậu-phương, thường khi vì lý do gia-đình hơn là kháng-chiến yêu nước, nhưng tất cả đều bị khánh-kiệt từ mấy năm trước. Vì ở hậu-phương thiếu hàng-hóa, thiếu giao thông và khả-năng tiêu-thụ của nhân-dân quá kém cỏi, nên họ chẳng kiếm chác được bao nhiêu. Lấy cớ là tránh nạn Pháp nhẩy dù, cứ ba hoặc sáu tháng một họ lại phải di chuyển tiệm buôn từ nơi này sang khác, phá nhà cũ làm nhà mới. Nạn lạm phát (một nghìn đồng năm 1955 trị giá bằng một đồng năm 1946) và cuối cùng là Thuế Công-thương-nghiệp đã khiến họ trở thành bàn tay trắng, buôn đi bán lại lấy công làm lãi.

Tuy nhiên việc tìm kiếm tư-sản cũng không khó là vì danh-từ “tư-sản” cũng như danh-từ “địa-chủ” hết sức co rãn. Một người sống “trên mức bình thường” cũng có thể tạm xếp vào loại tư-sản, vì chính-quyền có thể chứng minh trước dân chúng là quả họ có một “tư-sản” nào đó. Trái lại việc lùng kiếm những người mại-bản thì thật quả là khó. Những cố-vấn Trung-quốc thực-sự đã lầm to khi họ hạch sách bắt kiếm cho kỳ được tư-sản mại-bản. Có lẽ họ yên trí rằng ở Việt-nam loại người này cũng đông đảo như ở Trung-hoa Quốc-dân-Ðảng. Sự thực thì ở Thượng-Hải, dưới chế-độ Tưởng, có rất nhiều tư-sản mại-bản, nhưng ở Việt -Nam thì thuở ấy hoàn toàn không có, vì trong suốt thời kỳ Pháp-thuộc, mọi việc xuất-nhập cảng đều thuộc độc-quyền một vài công ty tư-bản Pháp.

Nói rằng dưới chế độ thuộc địa có tư-sản mại-bản Việt-nam đã là hài-hước, mà cho rằng trong vùng kháng chiến có tư-sản mại-bản lại là vô-lý hết chỗ nói. Tuy nhiên, Bác Mao nói thì phải nghe và lệnh trên ban xuống thì phải thi hành, và muốn cho danh-sách có đủ các thành phần như cấp trên đòi hỏi, các ủy-ban tỉnh liền bắt mấy cán-bộ mậu-dịch của Ðảng, lâu nay phụ-trách buôn lậu xe-đạp, thuốc tây, dầu lửa, và một vài thức cần thiết cho kháng chiến từ vùng tề vào. Lý-luận của cộng-sản rất đơn sơ. Nếu không có xuất nhập khẩu thực sự, thì việc buôn lậu qua giới tuyến cũng có thể tạm coi là xuất nhập khẩu.

Kết quả là mấy người trước kia được Ðảng tín-nhiệm giao cho công việc nguy-hiểm là buôn bán với “tề” bỗng nhiên bị quy là “Việt-gian” và đưa vào trại giam. Sau khi danh sách được Trung-ương chấp nhận, một tòa-án quân sự được thành lập trong mỗi Khu và di-chuyển từ tỉnh nọ sang tỉnh kia để xử án “Việt-gian” ở mỗi tỉnh. Chánh án khu Tư là ông Hồ-đắc-Ðiềm, trước kia là tổng-đốc Hà-đông và giáo-sư trường Luật Hà-Nội. Thẩm-phán và công-tố viện đều là đảng-viên Ðảng Lao Ðộng. Không có trạng-sư, chỉ có “biện-hộ viên”. Họ không phải là luật-gia xuất thân, mà chỉ là người thường, một người làm nghề đỡ đẻ, và nhiệm vụ của họ là bênh-vực quyền lợi của nhân dân, không phải quyền lợi của bị can. Họ có xin tòa khoan hồng cho một số “cò mồi” bị bắt để lấy cớ khai ra “đầu xỏ”, nhưng họ yêu cầu tòa thẳng tay trừng-trị “Việt-gian phản-động”. Tòa xử công khai, nghĩa là có hai đoàn đại-biểu đi dự. Một đoàn do mỗi xã cử một người và một đoàn do mỗi xí-nghiệp cử một người. Tất nhiên những người được cử đi dự đều là đảng-viên trung-kiên. Những đại-biểu đi dự được sửa soạn hai tuần lễ trước, học thuộc lòng những khẩu hiệu cần phải hô, và hô vào những lúc nào cho đúng lúc. Việc sửa soạn thì rất rầm rộ, nhưng đến khi tòa xử thì tương đối rất khoan hồng. Chiến lược cộng-sản là tỏ thái-dộ công-bình và khoan hồng trong những vụ án có ảnh hưởng lớn đối với nhân dân.

Ở Thanh-Hóa, chẳng hạn, chỉ có địa-chủ số một là ông Nguyễn-hữu-Ngọc và một vị hòa-thượng là Tuệ Chiếu bị lên án tử hình, còn linh mục Mai-bá-Nhạc cùng hai tư-sản mại-bản chỉ bị phạt 20 và 15 năm khổ sai. Cựu quan-lại là ông Hà-văn-Ngoạn, và cựu khoa-bảng là cụ Cử Lê-trọng-Nhị không hầu tòa vì đã chết từ mấy tháng trước trong trại giam. Trong gần một năm, không thấy những người bị án tử-hình mang ra hành-hình nên nhiều người yên trí là họ được ân giảm, nhưng đột nhiên đêm trước hôm trao đổi tù-binh giữa Pháp và Việt-minh, hai người bị đưa ra bắn. Vụ hành hình này rất đơn giản, không có dân chúng xếp hàng vỗ tay và hô đả đảo như thường lệ. Sáng hôm sau, những “Việt gian” khác được trả lại tự-do.

(Còn tiếp)

Số hạng Thu-hoạch trung-bình kg thóc

Thuế %

Số hạng Thu-hoạch trung-bình kg thóc Thuế %
1 Từ 71 đến 95 5 21 Từ 706 đến 755 25
2 96 – 115 6 22 756 – 805 26
3 116 – 135 7 23 806 – 855 27
4 136 – 155 8 24 856 – 905 28
5 156 – 175 9 25 906 – 955 29
6 176 – 205 10 26 956 – 1005 30
7 206 – 235 11 27 1006 – 1055 31
8 236 – 265 12 28 1056 – 1105 32
9 266 – 295 13 29 1106 – 1155 33
10 296 – 325 14 30 1156 –1215 34
11 326 – 355 15 31 1216 – 1275 35
12 356 – 385 16 32 1276 – 1335 36
13 386 – 425 17 33 1336 – 1395 37
14 426 – 465 18 34 1396 –1455 38
15 466 – 505 19 35 1456 – 1515 39
16 506 – 545 20 36 1516 – 1575 40
17 546 – 585 21 37 1576 – 1635 41
18 586 – 625 22 38 1636 – 1695 42
19 626 – 665 23 39 1696 – 1755 43
20 666 – 705 24 40 1756 – 1815 44
      41 1816 – trở lên 45

Giáo sư Bernard Fall đã chép bản thuế biểu này trong cuốn Le Việt-Minh (tr. 249) của ông, nhưng cũng như các quan-sát viên ngoại-quốc khác, ông có ngờ đâu rằng ngoài thuế-biểu chính-thức này, nông-dân còn phải đóng thêm một số “phụ-trội” mà chính-quyền Việt-minh dấu kín không hề công-bố. Số phụ-trội này nói là để xung vào “quỹ xã” còn thuế chính nộp vào kho bạc nhà nước. Sự thực thì cả hai đều gộp làm một và tùy ý Ðảng chi dùng. Thuế phụ-trội định là 15 phần trăm của thuế chính-ngạch và cả hai thứ đều phải nộp một lúc. Chi-bộ xã giữ hai phần ba số thuế phụ-trội thu được và nộp Tỉnh-bộ một phần ba.

Tỉnh-bộ cũng chỉ giữ hai phần ba số phụ-trội nhận được và đưa lên Tổng-bộ một phần ba. Tổng-bộ lại giữ hai phần ba và nộp cho Cơ-quan Thông-tin Quốc-tế (Cominform) một phần ba làm Nghĩa-vụ Quốc-tế.

Như vậy, nghĩa là bản thuế-biểu chỉ dùng để tính thuế chính-ngạch, rồi cộng thêm vào thuế chính-ngạch 15 phần trăm nữa. Muốn cho rõ hơn, chúng tôi xin trình bày hai tỉ-dụ.

Thuế Bậc Một : Theo bản thuế-biểu thì nông-dân thuộc loại này phải đóng 5 phần trăm số lúa thu-hoạch cho chính-phủ và ngoài ra còn phải đóng 15 phần trăm của 5 phần trăm, nghĩa là 0,75 phần trăm cho Ðảng. Tổng cộng là 5,75 phần trăm.

Thuế Bậc 41 : Những người thuộc loại này phải đóng 45 phần trăm thu hoạch cho chính-phủ, cộng thêm 15 phần trăm của 45 phần trăm, nghĩa là 6,75 phần trăm tổng số thu-hoạch cho Ðảng. Tổng cộng là 51,75 phần trăm của thu-hoạch. Nhưng đây mới chỉ là trường hợp những “phú-nông” tự cày cấy lấy ruộng. Những địa-chủ cho thuê ruộng lấy tô phải đóng thêm 25 phần trăm, nghĩa là phải nhân 51,75 với 1,25 thành 64,68 phần trăm. Ðấy là mức thuế cao nhất.

Tuy nhiên đấy mới chỉ là nguyên tắc đại cương. Thực ra thuế nông-nghiệp còn nhiều điều khoản rắc rối hơn. Ðể cho rõ ràng hơn, chúng tôi xin trình bầy hai trường hợp điển hình, thuế của một bần-nông (bậc 2) và thuế của một địa-chủ (bậc 41). Tuy chỉ là giả dụ cho rõ hiểu cách tính, chúng tôi cũng cố ý đưa ra những con số về diện-tích và về sản-lượng hết sức xát thực-tế để độc-giả có thể quan-niệm đúng-đắn về đời sống dân-quê Bắc-Việt và ảnh-hưởng của thuế nông-nghiệp đối với họ như thế nào.

Trường-hợp A

Giáp là một bần-nông có 5 sào đất mà vợ chồng anh cày cầy lấy. Anh có vợ và hai con nên được tính là có bốn “nhân khẩu”. Với 5 sào ruộng, mỗi năm Giáp thu hoạch được 400 kilô thóc. Bây giờ tỉ dụ cán-bộ cũng công nhận là anh thu được 400 kilô (không bắt bình cao hơn như thường lệ), thì muốn tính xem anh thuộc vào bực nào, phải đem 400 kilô chia cho 4 nhân khẩu. Mỗi nhân khẩu được 100 kilô. Vậy chiếu theo bản thuế, gia-đình Giáp đứng vào bậc 2, tỷ-lệ thuế là 6 phần trăm.

Giáp phải nộp cho chính-phủ 6 phần trăm của 400 kg, tức là : 24 kilô

Nộp cho Ðảng 15 phần trăm của 24 kg, tức là : 3,6 kilô

Tổng cộng : 27,6 kilô

Giáp còn lại 327,4 kilô thóc để nuôi bốn miệng ăn trong suốt một năm. Tính 100 kilô thóc xay được 65 kilô gạo, Giáp có 242 kilô gạo để ăn trong một năm, nghĩa là mỗi ngày 665 gam để nuôi bốn miệng ăn. Người nông dân Việt-Nam trung bình ăn mỗi ngày 500 gam vị chi trừ một số ít phú-nông địa-chủ là có ít nhiều thịt cá, còn bần nông chỉ lấy cơm làm no bụng. Về vụ gặt hái, làm lụng vất vả nông dân Bắc-Việt có thể ăn một kilô gạo một ngày vì họ ăn đến ba bữa cật lực. Tỉ-dụ kể trên chứng tỏ một bần nông kiếm không đủ gạo buôi thân vẫn phải nộp thuế cho Ðảng và cho chính-phủ.

Trường-hợp B

Cụ Bính là một địa-chủ vì cụ có 15 mẫu ruộng. Cả cụ ông lẫn cụ bà đều già nua tuổi tác, có hai người con nhưng một người đi bộ-đội và một người làm cán-bộ mậu-dịch nên không có nhà. Vì không cày cấy lấy được nên ruộng phải cho tá-điền làm thuê, mỗi mẫu lấy 400 kilô thóc (rẽ đôi), nghĩa là 6.000 kilô tất cả. Tuy gia-đình cụ Bính có bốn miệng ăn, nhưng chỉ được coi là có ba nhân khẩu, vì người con đi bộ-đội được tính là một nhân khẩu, còn người con làm cán-bộ, có lương, thì không được tính. Mang 6.000 kilô chia cho 3, thành ra mỗi nhân khẩu được 2000 kilô, như vậy là gia-đình cụ Bính được xếp vào bực 41, loại cao nhất. Thuế của cụ tính như sau:

Nộp cho chính-phủ 45 phần trăm của 6.000 kg : 2.700 kg
Nộp cho Ðảng 15 phần trăm của 2.700 kg : 405 kg
Tổng cộng : 3.105 kg
Nhưng vì cụ Bính không tự cày cấy lấy ruộng và tất cả lợi tức của cụ là do “bóc lột” tá-điền mà có, nên thuế của cụ phải tăng thêm 25 phần trăm. Như vậy thuế của cụ sẽ là : 3.105 kg x 1,25 = 3.881 kg 250, nghĩa là 64,68 phần trăm tổng-số thu-hoạch. Cụ còn lại 2.118 kg 750 thóc, tương đương với 1376 kg gạo.

Tạm định là hai cụ già ăn mỗi ngày hết 1 kg gạo, tức 365 kg mỗi năm, thì còn thừa 1.011 kg gạo để bán đi mua măm muối, rau cỏ và chi tiêu các món khác là vừa vặn, chưa nói đến may mặc và thỉnh thoảng phảI mua cho con bút máy, đồng hồ mà cán-bộ và bộ-đội vẫn thường vòi vĩnh bố mẹ, hoặc đôi khi phải thay trâu bò cày ( bán con già mua con non ) cho tá-điền.

Tính thuế theo kiểu trên đây mới là giả-dụ thu-hoạch của gia-đình cụ Bính được “bình” đúng mức, nhưng thực tế thì không mấy khi như vậy. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, muốn tính thuế phải nhận diện-tích ruộng với sản-lượng mỗi mẫu, nhưng cả hai con số này bao giờ cũng bị “kích” lên quá lố.

Về diện-tích thì đáng lẽ không cần phải “bình” vì hầu hết mọi nơi, Pháp đã đạc-điền nên chỉ việc xem “trích-lục” ruộng là biết rõ diện-tích mỗi thửa một cách rất chính-xác. Nhưng cán-bộ không bao giờ công-nhận những con số trong trích-lục và nhất định bắt nhân dân phải “bình” lại, để đưa ra một con số lớn hơn. Người ngoại cuộc không thể nào chấp nhận được lối làm việc phi-lý như vậy, nhưng cán bộ cộng-sản nhất định cho rằng chỉ có “bình” mới đúng, vì “nhân dân rất sáng suốt, không bao giờ bình sai cả”. Tỉ-dụ, một nông dân có một mẫu ruộng, khai là một mẫu, nhưng cán-bộ xui cốt-cán1 đồng thanh nói là thửa ruộng ấy rộng 1 mẫu rưỡi. Chủ ruộng không có thể cãi và không giám mang trích-lục ra đối chiếu vì biết1 Cốt cán là những nông-đân theo Ðảng và làm việc cho Ðảng, chưa được thu-nhập vào Ðảng. trước là nếu có chìa trích-lục ra thì thể-tất cán-bộ sẽ bĩu môi nói : “Ngày xưa Pháp và bọn đặc-điền ăn tiền nên đề láo, chỉ có nhân dân mới ước lượng đúng mức”. Việc “kích” diện tích ruộng cao hơn, không phải chỉ nhằm phá sản một mình giai cấp địa-chủ, mà chính-thực là muốn bần-cùng-hóa toàn thể nông-thôn.

Bốn năm sau, trong dịp “Sửa Sai”, Việt Cộng hạ thấp tất cả sản lượng xuống một bực. Việc này chứng tỏ, trong bốn năm đầu, Việt Cộng đã chủ trương làm kiệt quệ toàn dân để khiến mọi người trở thành dễ sai dễ bảo, và không có điều kiện nổi loạn. Tục-ngữ Việt-Nam có câu “lạnh vì gạo, bạo vì tiền”. Hết tiền, hết gạo, mọi người phải an phận chịu đựng. Ðoạn văn sau đây, trích trong tờ Nhân Dân, cơ quan chính thức của Ðảng Lao-Ðộng, phơi bầy tất cả mánh lới mà Việt Cộng đã dùng để “kích” thêm diện-tích ruộng:

“Khi điều chỉnh diện tích , cán-bộ đội “Tô-Hiệu” đã gò nhân dân tự báo diện tích tăng từ 10 đến 25 %. Nhà chị Tèo, trung nông, có 1 mẫu, 9 sào ruộng, phải báo đi báo lại đến 4 lần, tăng lên thành 2 mẫu 5 sào, cán bộ mới nhận là đúng. Ông Quân phú nông, có 5 mẫu, nghe phong thanh có người bảo “không báo đúng sẽ bị tịch thu tài sản” sợ, nên phải báo lên thành 6 mẫu. Có cốt-cán biết cán bộ dùng mình làm “điển hình” để gò ép quần chúng, nhưng không giám phản đối. Sau này chị Tít đã thú thật : “Tôi ngượng vớI nhân dân quá, nhưng chị đội1 cứ “bồi-dưỡng” 2 thành ra phải nói dối.”
NGUYỄN-ỨNG-CHIÊM
Báo Nhân Dân, số 903, ngày 24-8-1956

Cộng-sản dùng cốt-cán để bắt nông-dân phải khai tăng diện-tích ruộng, rồi lại bắt họ phải khai tăng cả sản-lượng mỗi mẫu hoặc mỗi sào. Tỉ-dụ, một trung-nông có một mẫu và gặt được 800 kilô thóc, và khai là gặt được 80 kilô hoặc ít hơn một chút. Cán-bộ cộng-sản không nhận là đúng và xui cốt-cán khai giữa cuộc họp là anh ta có 2 sào cũng ở cánh đồng ấy mà anh ta gặt được 240 kilô, ngụ ý rằng nếu có 1 mẫu thì phải gặt được 1.200 kilô. Người có một mẫu ruộng phải câm miệng, không giám cãi.

Ðoạn văn sau đây trích trong một thiên phóng-sự điều tra của báo Thời Mới về chiến dịch Sửa Sai chứng tỏ Ðảng đã dùng cốt-cán làm nội-công để buộc nông-dân phải nhận sản-lượng cao như thế nào:

“Ðến phần điều-chỉnh sản-lượng càng lắm ý-kiến bàn cãi. Cùng một khoảng ruộng, người thì nói nhà tôi gặt được 3 thúng, người thì nói chỉ gặt được thúng… Ông Biểu, một trung-nông ở thôn Miễu, đỏ mặt tía tai ở hội-nghị xóm : “Ruộng hạng A ở làng này chỉ 100 cân là hết nước, dự-kiến 130 thì định đánh cả thóc rơm, thóc lép hay sao ? Cải-cách đã sai rồi bây giờ lại theo như Cải-cách thì sửa sai cái gì ?” Mọi người nhao nhao đồng ý. Anh em ban thuế thôn ngồi thừ, không ai nói gì.”
Thời Mới, ngày 19-4-1957

Vì cả diện-tích ruộng lẫn sản-lượng đơn-vị đều bị kích lên nên con số thu-hoạch tăng lên quá chừng. Kết quả là, thường khi một bần-nông chỉ gặt được 100 kilô phải nhận là gặt được 200 kilô, để chịu thuế tính theo 200 kilô. Số thuế sẽ tăng quá gấp đôi vì 100 kilô chỉ phải đóng 6 phần trăm mà 200 kilô phải đóng tới 10 phần trăm. Kết quả là tuy chính-quyền Việt Minh tuyên bố chỉ thu 20 phần trăm hoa-lợi của nhân dân, thực ra đã thu quá 40 phần trăm.

Với chính-sách thuế khóa như vậy, trung-nông có 5,7 sào thường phải đóng cho chính-phủ nhiều hơn ngày trước tá-điền phải đóng địa-tô cho địa-chủ. Chính-phủ thu thuế nông-nghiệp một năm hai lần, ngay sau khi gặt chiêm và gặt mùa, mà phải nộp hoàn toàn bằng thóc. Những thửa ruộng trồng hoa mầu khác hoặc trồng cây ăn quả vẫn phải nộp thuế bằng thóc; nộp tiền chính phủ cũng không chịu. Nền nhà và sân, dù là sân gạch, nếu rộng quá một mẫu cũng phải chịu thuế nông-nghiệp như ruộng lúa. Có ngườI phá sân làm ruộng để lấy lúa nộp thuế, nhưng bị quy tội là đã “phá-hoại tài sản của nhân dân”.

Bài đã đăng: Mời quý bạn đọc bấm vào đây xem
Phần1 Cái vinh & cái nhục của một tiểu nhược quốcPhần2  Nước Mất Lại Còn

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản : Phần 5: CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT

Chương 14: Chiến-dịch Giảm-tô

Hoàng-văn-Chí – Bản dịch của Mạc-Định

Từ Thực-dân Ðến Cộng-sản  
• Hoàng-văn-Chí

From Colonialism To Communism
Một Kinh-nghiệm Lịch-sử Của Việt-nam

• Bản dịch của Mạc-Định

—— o0o ——

PHẦN 5

CẢI CÁCH RUỘNG ÐẤT
“Muốn chữa một tình trạng bất công thì
vượt qua giới-hạn của công-bằng”.

Mao-Trạch-Ðông
(Bá-cáo về vụ Nông-dân bạo động tại Hồ-Nam)

 

Chương 14

CHIẾN-DỊCH GIẢM-TÔ

Vài tháng sau cuộc “Ðấu tranh Chính-trị” chấm dứt một đoàn cán bộ đã được huấn luyện tại Trung-quốc giả dạng làm nông-dân bí mật tới làng. Nhờ tổ đảng địa-phương mách mối họ làm quen với một vài cố nông túng bấn nhất trong làng, và xin cho ngụ cư trong nhà. Họ thực hành một chính sách gọi là “ba cùng”, nghĩa là cùng làm việc với chủ nhà (mà không lấy công), cùng ăn với chủ nhà (nhưng góp phần mình), và cùng ngủ một giường với chủ nhà. Nếu chủ nhà có vợ, như trường hợp thông thường, thì một nữ cán-bộ tới ngủ cùng với bà vợ, và một nam cán-bộ ngủ với ông chồng.

Họ ở như vậy trong ba tháng. Anh nông-dân rất hài lòng vì bỗng dưng có người giúp việc không công. Họ làm đủ mọi công việc, cày bừa hoặc gặt hái, tùy theo vụ. Họ quét nhà, trông trẻ, và trò chuyện luôn mồm. Họ tìm hiểu đời tư của chủ nhà, rất chăm chú nghe và tỏ vẻ thông cảm mỗi khi chủ nhân kể cho nghe một cảnh khổ cực của mình. Chẳng bao lâu người nông-dân chất phác coi họ là đồng tình đồng cảm với mình và có bao nhiêu tâm sự “to nhỏ” với họ cho kỳ hết. Họ chịu khó nghe và giảng cho anh thấy rõ nguyên nhân của mọi nỗi khổ của đời anh. Tỉ dụ trường hợp một anh nông-dân bị vợ bỏ, đi lấy chồng khác, thì cán-bộ giải-thích ngay rằng : “Giá anh không bị tên địa-chủ độc ác ấy bóc lột thì anh đâu đến nỗi túng thiếu. Anh đã sắm được cho chị ấy đủ thứ thì việc gì chị ấy lại nỡ bỏ anh !”. Tóm lại, theo cán-bộ thì mọi nỗi đau khổ mà nông-dân đã phải chịu đều xuất phát từ sự bóc lột tàn bạo của bọn địa-chủ lang sói.

Ðấy chính là điều mà họ cố nhồi vào óc mấy anh bần cố nông đã chứa họ trong nhà. Sau đó họ bày vẽ cho nông-dân biết rằng chỉ có một phương pháp duy nhất để cải thiện đời sống của mình là tin theo chính sách của Ðảng, đứng vùng lên tiêu diệt cho kỳ hết bọn địa-chủ cường hào ác bá trong làng. Công-tác tích-cực nhồi sọ này tiếp diễn mỗi ngày đến gần 18 giờ, cho tới khi người nông-dân trước kia hiền lành ngoan ngoãn, nay sẵn-sàng đứng dậy chống lại chủ đất của mình. Người nông-dân được giác ngộ gọi là cái “rễ”, và công-tác kể trên được gọi là “bắt rễ”. Tới giai đoạn này, người cán-bộ chấm dứt mọi hành vi xách động của mình trong làng, và từ đó chỉ ở miệt trong căn nhà mà anh đã “ba cùng”. Từ đấy cán-bộ chỉ hành động qua cái “rễ” của anh, mà anh cấp dưỡng tiền nong và dùng làm gián-điệp thường xuyên. Anh cổ động cái “rễ” mà ta tạm gọi là A đi kết nạp B, rồi đến lượt B đi kết nạp C, và cứ thế mãi. Công việc này gọi là “xâu chuỗi”, và B, C, D, v.v…, được gọi là “cốt-cán”. Phương pháp kết nạp này (mỗi rễ và mỗi cốt cán chỉ được phép giới thiệu một người mà thôi) nhằm phòng ngừa trường hợp vô tình két nạp một số lớn “phản động” và nhằm tránh những cạm bẫy mà địa chủ trong làng có thể giăng ra. “Rễ” còn giữ nhiệm vụ bí mật liên lạc với những cán-bộ khác, đang công-tác tại những xóm lân cận, để trao đổi và đối chiếu những tin tức do các cốt-cán cung cấp. Họ điều tra tỉ mỉ mọi chi tiết của đời sống trong làng, tình-trạng sở-hữu ruộng-đất và tài-sản, thái-độ chínhtrị, hoạt-động quá khứ, và ngay cả những cuộc tình duyên kín đáo nhất của từng người một (Việc điều tra những cuộc tình duyên này nhằm một mục-đích đặc biệt : người đàn bà nào thời còn là con gái, có “dính líu” với một địa-chủ nào, sẽ bị bắt buộc phải “tố” trước công chúng rằng chị đã bị người địa-chủ kia “hãm hiếp”). Sau vài ba tháng hoạt-động như vậy, người cán-bộ thu-thập được đầy đủ chi-tiết cần thiết về cái làng mà anh phụ trách, để đích thân báo-cáo trước một phiên họp bí-mật của Ðoàn Cải-cách

Ruộng-đất đóng trong tỉnh. Tại đây, sau khi tham khảo ý kiến của Ðoàn, anh cán-bộ đề nghị qui định thành-phần cho tất cả dân làng, đặc-biệt là thành phần địa-chủ, và gán cho người nào những “tội” gì ?

Tới lúc đó Ðội Cải-cách Ruộng-đất mới ra mắt công khai, Ủy-ban hành chính xã và chi-bộ Ðảng ở xã tức thì bị giải tán. “Ðội” đứng lên điều khiển mọi công việc trong làng, cắt cử một đội công-an mới gồm toàn nông-dân cốt án, và ra lệnh phong tỏa làng. Thường thường mỗi làng ở Bắc-Việt có một lũy tre xanh bao quanh, và có hai cổng. Họ đóng cổng lại, canh gác xuốt ngày đêm và không cho ai ra vào nếu không có giấy phép của Ðội Cải-cách Ruộng-đất. Ðội liên lạc với Ðoàn bằng một đường giây điện-thoại mới dựng lên. Khách bộ hành hễ thấy hàng cột tre còn đang xanh mang giây điện-thoại là biết ngay trong làng nào đó ở phía đầu giây đang có đấu tố khủng khiếp. Người nào khôn hồn hãy tránh ngay đường giây ấy, nếu không, có thể bị tai bay vạ gió, nguy hiểm đến tính mạng không chừng. Chiến-dịch chính-thức mở đầu như vậy và được thực hiện làm sáu bước liên tiếp, mà bước cuối cùng là “phiên xử án”.

Bước 1: Phân-định Thành-phần

Nông-dân thuộc thành-phần bản-bộ, tức là bần cố nông, phải đi dự một lớp đặc-biệt để học cách phân-định thành phần tất cả dân làng. Những tài-liệu học tập gồm có bản Ðiều lệ Phân-định Thành-phần ở Nông-thôn, các văn-kiện về thể-thức áp-dụng bản điều-lệ này cùng những tiêu-chuẩn phân loại. Mỗi tỉnh có tiêu-chuẩn khác nhau mà báo-chí cộng-sản không hề nói đến. Thí dụ trong một tỉnh, những tiêu-chuẩn phân-định các loại trung nông như sau :

a) Trung nông cứng : Những trung nông có một con bò, một con heo và một đàn gà.

b) Trung nông vừa : Những trung nông có một con heo và một đàn gà.

c) Trung nông yếu : Những trung nông chỉ có một đàn gà hoặc không có gì hết.

Không những tiêu-chuẩn ở mỗi tỉnh một khác mà còn thay đổi mỗi đợt đấu tố một khác. Sau mười ngày tích-cực học-tập và “bình-nghị dân-chủ”, các học viên biểu-quyết một bản phân-định thành-phần mà thường thường là in hệt tài-liệu cán-bộ đã soạn thảo từ trước. Tất nhiên lúc đầu mỗi người một ý, nhưng sau khi thảo-luận mọi người đều chấp-thuận ý-kiến của cán-bộ. Ðiều này chẳng cógì lạ vì thực-tế chứng tỏ cán-bộ biết rõ về dân làng hơn hẳn người làng.

Bước 2 : Phân loại địa-chủ

Ngay sau khi Ðội Cải-cách Ruộng-đất (thường gọi tắt là Ðội Cải-cách, hoặc Ðội) ra mắt công-khai, tức là mười ngày trước khi thành-lập danh-sách địa-chủ, những người sẽ bị quy là địa-chủ đã bị bắt ngay và nhà cửa của họ đã có “cốt-cán” canh gác suốt ngày đêm. Nhưng mỗi loại địa-chủ sẽ bị đối đãi một cách khác nhau.

Trên lý-thuyết và theo lời ông Trường-chinh tuyên-bố trong bản bá-cáo của ông thì có ba loại địa-chủ chính: địa-chủ việt-gian phản-động, cường-hào, gian ác, địa-chủ thường và địa-chủ kháng-chiến. Ngoài ra còn một loại nữa gọi là “nhân-sĩ tiến-bộ” dành riêng cho mấy ông cựu quan-lại hiện được cộng-sản trọng dụng, như các ông Hồ-đắc Ðiềm, Phan-kế-Toại, vân vân… Nhưng trên thực-tế loại thứ hai và thứ ba không hề có. Tất cả mọi địa-chủ, không trừ một ai, đều bị quy vào loại “địa-chủ việt-gian phản-động”. Như đã trình bày ở trên, tất cả các địa-chủ còn ở lại vùng kháng-chiến cho đến năm 1953, dù muốn dù không, đều có tham-gia ít nhiều vào công-cuộc kháng-chiến vi chính-sách của cộng-sản là tuyệt-đối không để một ai có thể ngồi không, không có “công-tác”. Thanh-niên và những người tráng-kiện thì gia-nhập quân-đội hoặc làm cán-bộ chính-quyền, ở xã, huyện, hoặc tỉnh. Những người tuổi tác thì tham-gia những tổ-chức bù-nhìn như “Phụ lão Cứu Quốc”, “Mặt trận LiênViệt” vân vân… Mọi người đã tham-gia kháng-chiến trong bảy năm trời nên tin tưởng rằng mình sẽ được xếp vào loại “địa-chủ kháng-chiến”, hoặc ít nhất cũng là “địa-chủ thường” vì sau khi tự xét, họ thấy họ chẳng hề phạm một tội gì đối với nông-dân. Ðành rằng họ có “bóc lột” nông-dân bằng cách cho nông-dân thuê ruộng lấy tô nhưng họ lý-luận rằng đấy chẳng qua là tính-chất của chế-độ cũ, và từ ngày lên cầm chính quyền, cộng-sản cũng vẫn dung túng lối “bóc lột” đó trong bao nhiêu năm rồi. Nhưng đến khi chiến-dịch Cải-cách Ruộng đất lan đến làng họ, mọi người đều giật mình thấy mình bị xếp vào loại “việt-gian phản-động” và bị tố đủ thứ tội. Ngay cả những người tích-cực phục-vụ chính-quyền kháng chiến và đã được ông Hô-chí-minh tuyên-dương công trạng cũng bị tố cáo là đã cố tình “chui vào cơ-quan của Ðảng và chính-phủ để phá-hoại Cách-mạng”. Không cần phải bằng cớ, chỉ cần một nông-dân nào đó nói rằng đã trông thấy địa-chủ vẫy tay ra hiệu cho máy bay Pháp là đủ để lên án địa-chủ đó là việt-gian, làm gián-điệp cho Pháp.

Loại địa-chủ này, cũng gọi là địa-chủ đầu xỏ, lại được chia thành ba hạng nặng nhẹ khác nhau: A, B và C. Cán-bộ không tuyên bố cho địa-chủ biết là họ bị xếp vào hạng này nhưng chỉ cần một chút thông minh cũng đoán biết ngay. Nếu đám biểu-tình hô “Ðả đảo tên địa-chủ X, việt-gian phản-động cường-hào, gian-ác !” (4 danh-từ kèm theo chữ “địa-chủ”) thì có thể biết chắc X là địa-chủ hạng A. Nếu đám biểu-tình chỉ hô “Ðả đảo tên địa-chủ Y cường-hào gian-ác!” (2 danh-từ) thì chắc chắn Y là địa-chủ hạng B. Còn nếu họ chỉ hô : “Ðả đảo tên Z địa chủ ngoan-cố !” (1 đanh-từ) thì Z thuộc hạng C. Mỗi hạng sẽ có một số-phận khác nhau. Ðịa-chủ hạng A bị đưa đến một trại giam tạm-thời, thiết-lập tại một làng kế cận, và những người “nguy-hiểm” nhất trong cùng hạng có thể bị nhốt trong một cái cũi gỗ, in hệt cũi nhốt thú dữ. Ðịa-chủ hạng B phải đi dự một lối cải-tạo đặc-biệt kéo dài trong ba bốn tuần, suốt ngày đêm không được ngủ. Mục-đích của lớp cải-tạo này là khủng-bố tinh-thần địa chủ để bắt cung khai những chỗ chôn dấu vàng bạc. Họ bị khủng-bố liên miên đến nỗi họ trở thành nửa tỉnh nửa điên và sẳn sàng thú nhận bất cứ điều gì cán-bộ bắt họ phải thú nhận. Họ phải viết thư về cho vợ con chỉ chỗ dấu vàng, bạc, bảo đào lên mang nộp cho nông-hội. Ngoài ra họ còn phải viết tờ kê khai tất cả những người còn nợ họ tiền nông. Họ khai ra người nào thì lập tức Ðội Cải-cách bắt người ấy phải “trả” ngay cho Nông-hội. Vì địa-chủ mất tinh-thần, nhiều khi khai vu vơ nên có nhiều thương-gia tự-nhiên bị “vạ vịt”, mất sạch cơ-nghiệp dù không có liên-quan trực-tiếp đến Cải-cách Ruộng-đất. Ðịa-chủ hạng C bị giữ trong một nhà nông-dân cùng làng, nhưng đêm đến lại bị công-an cầm kiếm đến điệu đi, chuyển từ nhà này sang nhà khác.

Một điều đáng chú ý là việc quy-định thành-phần lúc nào cũng chỉ có tính-cách tạm-thời, và địa-chủ hạng nào cũng có thể “kích” lên “hạ” xuống tùy theo thái-độ của đương-sự, hoặc “ngoan cố” hoặc ngoan ngoãn phục tòng. Vì cán-bộ có giao hẹn trước, rõ ràng như vậy, nên phần đông các địa-chủ tỏ ra khúm núm và sợ sệt. Nhưng vì Ðảng đã ấn-định một số tử hình tối-thiểu cho mỗi xã nên dù tất cả địa-chủ có khúm núm bằng mấy cũng có một số không sao tránh khỏi án xử tử. Nhưng nói chung, khúm núm vẫn có lợi hơn là bướng bỉnh, và người dân Việt, đã từng biết phải khúm núm như thế nào đối với quan lại và thực-dân, nên sớm nhận thấy giờ đây họ còn phải khúm núm hơn nữa đối với “giai-cấp mới”.

Bước 3 : Tống-tiền công-khai

Sau khi chủ gia-đình bị bắt và điệu đi, cán-bộ Ðội Cải-cách gọi vợ con địa-chủ đến và bảo cho biết phải lo trả ngay tức-khắc một số tiền gọi là “thoái tô”, hoặc nợ nông-dân. Trước đấy bốn năm năm, chính-quyền cộng-sản có ra một thông cáo buộc địa-chủ phải giảm tô 25 phần trăm. Hồi ấy, mới bắt đầu kháng-chiến, báo chí chưa phát hành rộng rãi nên nhiều người không biết, và sau khi ban hành bản thông-cáo, chính-quyền cũng bỏ bẵng hàng năm không đả động tới. Giờ đây, Nông-hội cho rằng tất cả địa-chủ đều không tuân luật và đòi gia-đình địa-chủ phải “thoái tô”, tức là trả ngay tức khắc số tô đã thu quá mức trong bốn năm năm. Sự thực thì đa số địa chủ đã giảm tô, hoặc tuân theo thông cáo hoặc sợ chế-độ mà phải tự ý giảm, nhưng vì họ quen thói luộm thuộm và tự xét ruộng-đất chẳng có là bao nên không nghĩ tới việc biên-lai, sổ sách. Dù sao đi nữa bây giờ có khiếu nại cũng vô ích và cũng không có quyền khiếu nại nên địa-chủ đều phải nhận “trả”. Số “thoái tô” phải mang nộp cho Nông-hội, một tổ-chức do Ðội Cải-cách thành lập để núp sau ra lệnh.

Cán-bộ Cải-cách thường phán như sau : “Anh em nông-dân đã khai rằng mày đã thu một số tô quá mức là X tạ, Y ký và Z gam (con số rành mạch từng gam một). Anh em hẹn cho mày đến ngày… giờ… phút… phải trả cho kỳ đủ, nếu thiếu thì coi chừng !” Nói xong hắn đưa ra một mảnh giấy bắt vợ con địa-chủ phải ký nhận. Việc “đòi nợ” này còn một vài điểm đáng chú ý.

Theo cán-bộ thì “số nợ” được tính theo lời khai của mỗi tá-điền cộng lại, nhưng thực ra thì cán-bộ không hề để ý tới lời khai của ai cả, và cũng không hề làm tính cộng. Việc bắt tá-điền khai báo là chỉ cốt để có cớ “đòi nợ”. Còn số “nợ” là do cán-bộ ước định, căn cứ trên sự ước lượng về khả năng có thể trả được của mỗi địa-chủ : liệu chừng có bao nhiêu tiền mặt, nữ-trang, vân vân… và bao giờ cũng ấn-định một mức tối đa. Mục-đích của “thoái tô” là làm cho địa-chủ và gia-đình chỉ còn hai bàn tay trắng, trừ ruộng-đất, nhà cửa và đồ đạc trong nhà. Những thứ này không thể thoát đi đâu được và sẽ bị tịch thu trong chiến-dịch sau. Việc làm cho toàn thể giai-cấp địa-chủ chỉ còn hai bàn tay trắng, ông Trường Chinh gọi mọi cách “văn hoa” là “làm giảm uy-thế kinh-tế của địa-chủ”. Chủ tâm bần cùng hóa địa-chủ cho tới mức-độ cuối cùng biểu hiện trong việc tăng giảm số “nợ” tùy theo khả năng tột bực của “con nợ”. Nếu địa-chủ hoặc gia-đình địa-chủ trả hết số “nợ” trong thời-gian hạn-định thì thế nào cán-bộ cũng dở giọng nói : “Hôm nọ chúng tao tính lầm. Hôm nay tính lại thấy số nợ của mày thực sự là… (thường đưa ra một con số gấp đôi con số trước). Trái lại, nếu “con nợ” khôn khéo, đúng kỳ-hạn trả một phần rồi gãi đầu gãi tai, van nài xin khất một thời hạn nữa sẽ cố-gắng trả nốt, cứ mỗi kỳ lại trả thêm một chút, vừa trả vừa khất vừa nần nì để chứng tỏ cả thiện-chí lẫn sự bất-lực của mình, thì cán-bộ có thể bớt lần số nợ, mỗi chuyến giảm xuống một ít. Không phải vì cán-bộ thương tình nhưng vì Ðảng muốn tỏ cho nhân dân biết quả thực đã có nhiều địa-chủ trả đủ số nợ, việc đòi nợ hợp tình hợp lý và con số nợ cũng đúng với khả năng địa-chủ. Nhưng nếu địa-chủ cứ ì ra, không trả gì hết hoặc chỉ trả một số không đáng kể hoặc vì không xoay đâu ra tiền, hoặc vì liều chết bướng bỉnh thì nhất thiết số “nợ” cũ đứng nguyên, không tăng không giảm. Trong trường-hợp ấy, đòi nợ không còn là vấn-đề nữa, và địa-chủ sẽ bị “kích” lên hạng trên, quy thêm nhiều tội và cuối cùng có thể bị bắn.

Trong khi địa-chủ phải chạy tiền trả nợ . hoặc bằng tiền mặt hoặc bằng vàng bạc . thì nhà cửa của họ bị niêm phong, không được bán chác một thứ gì. Tất cả từ nhà cửa, trâu bò cho đến đồ đạc trong nhà đều được coi là tài sản của nhân-dân. Những thức này sẽ bị tịch-thu sau, nên địa-chủ không được phép bán. Mục-đích của việc đòi “nợ” không phải là đòi cho đủ số tiền mà chính là lấy cho hết những thức địa-chủ có mà có thể giấu được . như tiền mặt, vàng bạc, v.v… Mỗi khi địa-chủ, hoặc vợ địa-chủ chậm trả thì Nông-hội phái một nhóm hội-viên (phần nhiều là bà con trong họ) đến thúc dục phải trả cho mau. Họ sẽ hỏi vặn những câu như : “Ðôi vòng mày đeo hôm cưới đâu rồi ?” (đám cưới có thể là 20 năm về trước), hoặc : “Mày bảo mày không có tiền, thế phần gia tài của bà ngoại mày để cho con mẹ mày tiêu đi đâu hết ?” (việc thừa hưởng gia tài có thể là 40, 50 năm trước).

Một cách “tống tiền” khác là bắt vợ địa-chủ lôi đi biểu diễn khắp làng, mỗi tay mang một bãi phân bò tươi, cổ đeo một tấm biển lớn đề “Tôi là địa-chủ ngoan cố”. Nếu bà ta có con mọn thì chắc chắn là hai mẹ con phải giữ ở hai nhà để con không được bú và mẹ bị căng sữa, trong một thời gian rất lâu. Nếu con đã lớn thì mỗi đứa cũng phải giữ ở một nơi và đứa nào cũng bị dọa nạt cho tới khi chúng cung khai đúng hoặc không đúng . những nơi cha mẹ chúng chôn dấu của cải. Trẻ con non gan nên thường khai lung tung. Mặc dầu, hễ chúng khai chỗ nào là cốt-cán lập tức đưa cuốc, bắt mẹ chúng phải đào chỗ ấy. Công việc “đào mỏ” này có thể kéo dài hàng tháng nên nền nhà địa-chủ gần như không còn chỗ nào không đào bới. Nhiều nông-dân, sau trận đấu tố, được lĩnh nhà địa-chủ để ở thường không có phương tiện để sửa sang lại nền nhà cho bằng phẳng.

Bước 4 : Tố Khổ

Trong khi địa-chủ bị “tống-tiền” một cách hợp-pháp thì nông-dân được triệu-tập đi học một lớp đặc-biệt về “Tội ác của giai-cấp địa-chủ”. Mục-đích của lớp học là giảng cho nông-dân hiểu địa-chủ đã phỉnh-phờ, cướp đoạt, bóc lột và áp-bức họ như thế nào. Học xong, mỗi người bắt buộc phải “kể khổ”, nghĩa là phải tố chủ ruộng của mình ít nhất là một tội đối với mình. Ðể ôn lại trí nhớ cho nông-dân, giảng-viên đọc một bản kê khai những “tội điển hình”, nói là đã thu-thập trong những lớp học trước. Kết quả là nhiều nông-dân trước kia vẫn từ-tốn đối với chủ ruộng, đứng lên gán cho chủ cũ một số tội ác nào đó trong số những tội ác mà giảng-viên đã đọc cho họ nghe.

Những người “tố khổ” có thể chia đại khái thành ba loại. Loại thứ nhất gồm có những người mong có địa-vị trong chế-độ mới, hoặc ham được “quả thực” tức là của lấy của địa-chủ chia cho nông-dân. Họ tố hăng vì Ðội Cải-cách có hứa rằng “ai tố nhiều sẽ được hưởng nhiều” và “ai tích-cực đấu-tranh sẽ được kết nạp vào các tổ-chức của Ðảng”.

Loại thứ hai gồm những người cầu an bảo mạng, họ tố để tỏ vẻ “dứt khoát lập-trường với giai-cấp địa-chủ” và đứng hẳn “về phe Ðảng”. Những người “tố hăng” phần nhiều là những phần tử thành-tích bất hảo, trước kia có phạm một tội nào đó mà cán-bộ làm ngơ chưa hỏi đến. Những người tố “quấy quá” phần nhiều là con cái địa-chủ, cha mẹ cho phép tố để giữ lấy thân, tránh cho toàn gia khỏi bị tiêu-diệt. Ðoạn văn sau đây, trích ở tờ Thời Mới, số 8 tháng 5, 1957, nói lên sự thông-đồng giữa bố mẹ và con cái về việc con cái “tố khổ” chính bố mẹ mình.

CỨ TỐ HĂNG VÀO
… Sau khi “Ðội” (Cải-cách) rút, người con dâu đi kể lể với bà con hàng xóm rằng :
– Tôi nào có phải là hạng xấp mặt lên tố bố mẹ chồng. Khi “Ðội” người ta phát-hiện (quy là địa-chủ) rồi, thì hai mẹ con thì thầm suốt đêm. Tôi định ra kêu với “Ðội”, nhưng bà cháu cứ gàn đi :
“Tao già bảy, tám mươi rồi, có lên địa-chủ thì cũng gần kề miệng lỗ. Mày mà kêu thì chả tránh khỏi tiếng liên quan, rồi thì cả hai mẹ con tay trắng. Mày cứ tố hăng vào để giữ lấy số ruộng mà cày…”

Loại thứ ba là những người tố chỉ vì sợ hãi. Tuy địa-chủ là mục-tiêu chính nhưng nhiều người dù không có ruộng-đất cũng có thể bị quy là địa-chủ, hoặc có liên-quan với địa-chủ, nếu cán-bộ xét thấy họ có “tư-tưởng địa-chủ”. Liên-quan là một danh từ rất mơ hồ, có nghĩa là quyến thuộc, bạn bè, hoặc chỉ là chỗ quen biết, lui tới. Ðoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, ngày 2 tháng 6 năm 1956, nói rõ dân-chúng sợ bị quy là liên-quan tới mức nào :

VỢ CHỒNG TÔI TỪ NAY THẬT HẾT LO
… Mọi người đang đứng quanh xem giỏ tép của anh Tý vừa đơm đó ở đồng về, nghe nói đến chuyện liên-quan đều quay lại. Bà Bền tiếp luôn : Bà con hàng xóm láng giềng ai còn lạ gì nhà tôi, mấy đời khổ cực, phiêu bạt ra giữa cánh đồng, vợ chồng già ngày đêm đơm đó kiếm ăn. Mong đợi mãi, Ðội Cải-cách Ruộng-đất về làng, vợ chồng tôi được kết nạp vào Nông-hội. Thế rồi hôm họp xóm, ông Bền nhà tôi được cử làm đại-biểu đi dự đại-hội nông-dân xã. Chả biết đầu đuôi thế nào đang dự đại-hội, ông cụ nhà tôi bỏ về, trông như người mất hồn, mấy ngày đêm liền không ăn không ngủ. Tôi gặng mãi ông cụ chỉ nói : “Thế là khổ tao, bà mày tính thế nào chớ không thì nguy lắm”. Rồi có đến hàng tháng ông ấy không dám đi họp hành gì cả, cứ nằm lần thần bấm đốt ngón tay; nào là ” nhà ta một thằng rể, có họ hàng với địa-chủ nữa. Thế là liên-quan nhất định liên-quan rồi”.
Một người hỏi : “Thế bà có sợ liên-quan không ?”
Bà Bền cười : “Anh bảo ai không sợ mới thật là tài…”
… Ðứng dậy ra đi, bà còn nói thêm một câu : “Vợ chồng nhà tôi từ nay mới thật hết sợ liên-quan.”
Một người mỉm cười nhìn theo bà nói : “Chả phải mình bà sợ, xóm tôi khối người lo sợ như thế !..”

Có ba loại liên-quan, mỗi loại được đối xử một cách khác nhau :

1. . Loại có “liên quan nặng” với địa-chủ, gồm những người “có tư-tưởng địa-chủ”, có thái-độ bênh-vực địa-chủ. Những người này sẽ bị đối xử in hệt địa-chủ, nghĩa là bị “cô lập”, bị đặt ra ngoài vòng pháp-luật, bị bao vây kinh-tế tức là bị quản thúc với vợ con ở ngay trong nhà của họ cho tới khi đói mà chết.

2. – Loại có “liên-quan vừa” gồm những người trước kia có nhiều “ân tình” với địa-chủ. Loại này sẽ bị cùng với gia-đình đưa đến một làng nào đó, đổi nhà, đổi cửa với một người nào khác cũng có “liên-quan vừa” với địa-chủ ở làng ấy và cũng bị đuổi khỏi làng.

3. . Loại có “liên-quan sơ” gồm những người bị nghi là chưa dứt khoát lập-trường đối với địa-chủ, không chịu đấu tố hăng. Loại này chỉ bị trục xuất ra khỏi Nông-hội. Sau khi giai-cấp địa-chủ bị tiêu-diệt thì chỉ có Nông-hội là nơi mà nông-dân có thể thuê trâu bò hoặc vay giống mạ khi thiếu. Trong một làng mà mọi người đều nghèo như nhau thì vận mạng của mọi người hoàn toàn nằm trong tay Nông-hội. Mặc dù những hình-phạt ghê gớm kể trên, nhiều nông dân vẫn gan dạ, nhất định không chịu “tố” những người cùng làng bị quy là địa-chủ. Họ bất chấp mọi sự cưỡng ép hoặc phỉnh phờ vì, dù ít học, họ cũng tiêm nhiễm ít nhiều luân thường đạo-lý, và ở Việt-nam cũng như ở khắp mọi nơi, tố cáo người khác vẫn bị coi là một việc đáng khinh. Hơn nữa các Phật tử đều tin ở thuyết “nhân quả” và sợ “quả báo” nếu vu oan giá họa cho kẻ khác. Trong phong trào Trăm Hoa Ðua Nở, Phùng-Quán đã làm một bài thơ đả-kích chính sách bắt buộc nhân dân phải “nói điêu”. Bài thơ nhan-đề “Lời Mẹ Dặn” có mấy câu như sau :

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chìu
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Báo Văn số 21, ngày 27-9-1957

Vì bài thơ kể trên Phùng-Quán bị đưa lên mạn ngược “học-tập lao-động” cùng với nhiều văn-nghệ-sĩ khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Từ ngày ấy không ai biết số phận ông ra sao.

Bước 5 : Ðấu Ðịa-Chủ

Sau khi lập xong danh sách tội ác của mỗi địa-chủ, những người được chỉ-định ra “đấu-trường” tố khổ công khai bắt đầu tập dượt vai trò của mình để có thể biểu diễn một cách trôi chảy, trước công chúng và trước người bị “đấu”. Ðấu địa-chủ là “trò” then chốt của cả chiến-dịch, nên cần phải chuẩn-bị hết sức chu đáo. In hệt các diễn-viên phải tập đi tập lại vai trò của mình trước khi lên sân-khấu, những người đứng ra “đấu” cũng phải luyện-tập lời ăn tiếng nói bộ điệu của mình cho thật hoàn hảo để khán-giả có cảm-tưởng là mình chân thật và những tội mình buộc cho địa-chủ là có thực. Họ tập dượt về đêm, rất kín đáo, nhưng con cái nông dân thường có dịp thấy bố mẹ vừa xay lúa, dã gạo, vừa lắp đi lắp lại một câu để thuộc lòng. Ðóng vai trò “đạo diễn” cán-bộ phụ-trách còn bày vẽ giáng-điệu và uốn nắn lời nói cho họ. Trong những buổi diễn thử, có một hình nộm bằng rơm đặt ở giữa nhà thay thế cho địa-chủ, để những người “đấu” tiến đến sát, đọc thử những lời họ sẽ phải đọc. Sau khi chuẩn-bị đầy đủ, Ðội công-tác Cải-cách Rưộng-đất công bố ngày “đấu”.

Vì có ba hạng địa-chủ, A, B và C, nên cũng có ba loại đấu.

Ðịa-chủ hạng A bị đấu trong ba ngày liền, trước một đám đông từ một đến hai chục ngàn người, tức là dân một “liên xã”, một đơn vị hành-chính gồm từ mười đến mười lăm làng.

Ðịa-chủ hạng B bị đấu trước một đám đông một hai ngàn người, tức là tất cả dân trong một làng, liên tiếp trong hai ngày. Họ cũng bị gán những tội thường gán cho địa-chủ hạng A, nhưng tương-đối nhẹ hơn.

Ðịa-chủ hạng C chỉ bị “đấu lưng”, nghĩa là “đấu vắng mặt”. Trong khi nông-dân tố cáo những tội ác của họ thì họ bị giữ ở một nơi khác, đến khi nào tố xong họ mới bị điệu ra trước cuộc họp để nghe đọc một bản tổng-kê các tội ác mà các tá-điền . chỉ có tá-điền của địa-chủ mới được dự cuộc đấu này . đã “tố” cho họ. Nghe xong, địa-chủ phải tuyêp-bố “nhận” hay “không nhận”. Nếu nhận, địa-chủ phải ký tên vào biên-bản buổi họp. Ðảng giải-thích rằng sở dĩ có “đấu lưng” là tại Ðảng muốn khoan-hồng đối với những “phản-động phụ”, những phần-tử mà Ðảng còn hy-vọng cải hoán được. Vì còn hy-vọng họ sẽ cải hoán nên Ðảng không muốn “cạn tầu ráo máng” đối với họï, làm họ mất mặt trước công chúng. Thực ra thì chẳng phải vì vậy, mà vì một lý-do khác hẳn. Phần lớn những người bị quy là địa-chủ hạng C là những người buôn bán ở thành-thị nhưng có ít nhiều ruộng ở “quê cha đất tổ”, không cốt để thu lợi mà cốt để “đóng góp với làng nước”, khỏi mang tiếng là “bỏ làng”. Vì họ thường sống ở tỉnh thành, thỉnh thoảng mới về làng cúng giỗ và nhân thể thu tô, nên người làng không biết nhiều về đời tư của họ. Vì không có đụng chạm trực-tiếp nên việc “bịa” ra tội là một việc rất khó. Muốn cho “xuôi tai”, người “tố” phải nói rõ bị chủ ruộng đánh đập hoặc hiếp đáp trong dịp nào, ở đâu. Ðảng biết rằng toàn là chuyện bịa nên sợ đứng trước mặt đương sụ người tố có thể ấp-úng, làm mất uy-tín “anh em nông-dân” và gián-tiếp mất uy-tín Ðảng. Vì vậy nên Ðảng tổ-chức “đấu lưng”, giấu địa-chủ đi một chỗ, để cho những người “bịa tội” được vững tâm hơn. Chỉ có tá-điền nói cho tá-điền nghe nên dù họ có ấp-úng, ngượng ngùng cũng chẳng sao. Thật vậy đã có một vài cuộc đấu phải bỏ dở vì địa-chủ, khi thấy nông-dân buộc tội một cách lố bịch quá, nhịn không nổi, phải phá lên cười.

Mỗi lần đấu một địa-chủ hạng A thì toàn thể nhân-dân trong xã phải bắt buộc đi dự, kể cả phú nông và các địa-chủ khác, mỗi nhà chỉ được một người lớn ở nhà để trông nom củi lửa và trẻ nhỏ. Người đi dự xếp hàng thành từng nhóm riêng. Trung nông và bần cố nông đứng theo “tổ nông hội”. Phú nông đứng riêng và đi riêng, nhưng địa chủ và con cái địa-chủ thì đứng lẫn với bần cố nông, mỗi người do một “tổ nông hội” canh chừng. Cứ năm người họ thành một nhóm, mang theo một bình nước uống và một điếu cầy vì một khi ngồi vào chỗ trong hội-trường thì không ai được phép đứng dậy, đi lại. Mỗi làng vác theo biểu ngữ và cờ quạt trẻ con đi đầu đánh trống ếch. Ðịa-chủ bị bắt đi giữa bần cố nông cũng phải vừa đi vừa hô khẩu hiệu như mọi người, thỉnh thoảng cũng dơ nắm tay hô “Ðả đảo !”.

Mọi cuộc đấu đều tổ-chức ngoài trời, thường là sân banh, hay tốt hơn trên sườn đồi. Dân mỗi làng ngồi trong một khoảng đất có vạch vôi trắng làm giới hạn. Khán đài bằng gỗ và tre, cao ba từng. Từng dưới có 14 “thư ký” ngồi, 13 người là bần cố nông chỉ ngồi làm vì, một người là trung nông, biết đọc biết viết, ngồi hí hoáy, có vẻ làm thư ký thực. Từng trên là chủ tọa đoàn gồm bảy bần cố nông, trong số có chủ-tịch nông-hội làm chủ-tọa cuộc họp và một phụ-nữ đóng vai công-an trưởng. (Tác-giả nhận thấy vai trò công-an trưởng bao giờ cũng do phụ-nữ đóng, trong năm cuộc đấu tác-giả có dịp tham dự. Tác-giả có cảm-tưởng Ðảng dành vai trò này, có tính cách hống hách, cho phụ-nữ để đề cao uy quyền chính-trị của phụ-nữ trước công chúng). Người đàn-bà này chỉ huy tự-vệ xã, và cứ năm phút một lại hò hét, ra lệnh cho người bị đấu đứng trước khán đài phải quỳ xuống, đứng lên, dơ tay lên trời, khoanh tay trước ngực, giang tay ra hai bên, v.v… Trên tầng cao nhất của khán-đài treo ba bức ảnh khổng lồ, Hồ-chí-Minh ở giữa, Malenkov bên phải và Mao-Trạch-Ðông bên trái, trên mỗi chân dung lãnh-tụ có cờ mỗi nước. Hai bên khán-đài là những biểu-ngữ rất lớn mang những khẩu-hiệu như “Phóng tay phát-động quần-chúng đấu-tranh giảm tô (hoặc đấu-tranh Cải-cách Ruộng-đất)”, và “Ðả đảo tên địa-chủ… việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác”. Trong thời-kỳ kháng-chiến chống Pháp mọi cuộc họp đều phải tổ-chức về đêm để tránh máy bay oanh-tạc. Những cuộc đấu tố giữa trời đều đốt sáng bằng đuốc, lửa khói cao ngất từng mây, tạo nên một quang cảnh quái đản, một cảnh tượng trong ác mộng. Người tham dự có cảm-tưởng chứng-kiến một cảnh quỷ-sứ đương hành hạ những vong hồn rơi xuống địa-ngục. Khán-đài soi sáng bằng đèn điện. Ðôi khi có máy phá điện nhỏ nhưng thường là di-na-mô xe đạp. Bốn năm chiếc xe đạp buộc phía sau khán-đài, mỗi chiếc có người đạp luôn chân. Cán-bộ Ðội Cải-cách Ruộng-đất nấp phía sau khán-đài để nhắc và ra lệnh cho chủ-tọa đoàn. Ðôi khi có cố-vấn Tầu mặc quần áo Việt cùng ngồi với họ. Chủ-tịch chủ-tọa đoàn khai-mạc hội-nghị và tuyên-bố lý-do cuộc họp. Sau đó là một bài thuyết trình về ý-nghĩa và sự cần-thiết của cuộc đấu-tranh chống địa-chủ ; đại-khái là vai trò chính-yếu của nông-dân trong kháng-chiến, tính cách bội-phản của giai-cấp địa-chủ, v.v… Sau đó người đàn bà giữ chức công-an trưởng ra lệnh cho tự-vệ xã lôi tên địa-chủ việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác ra để “anh chị em nông-dân hỏi tội”. Tức thì hàng vạn người đồng-thanh hô : “Ðả đảo thằng việt-gian, phản-động, cường-hào, gian-ác (tên họ người địa-chủ bị lôi ra)”. Nạn nhân không được đi bằng hai chân, mà phải bò bằng tay và đầu gối từ ngoài hội trường vào đến trước khán-đài. Phía trước khán đài đắp hai ụ đất cách nhau chừng một thước, mỗi ụ cao độ một thước (để khán-giả trông rõ) và rộng chừng một thước vuông.

Ðịa-chủ bước lên một ụ, và ụ đối diện để cho những người đấu lên đứng. Nếu người bị đấu là một linh mục gia-tô giáo, hoặc một hòa-thượng phật-giáo thì cán bộ bắt phải cởi áo ngoài ra (áo tu-sĩ hoặc áo nhà chùa). Cộng-sản thanh-minh rằng đương-sự bị đấu với tư-cách cá nhân là địa-chủ, không dính dáng gì về tôn-giáo nên không cho mặc áo tôn-giáo, nhưng sự-thực thì cộng-sản cố ý tránh quang cảnh một cuộc khủng-bố tôn-giáo công-khai và quá lộ liễu.

Chủ-tịch chủ-tọa đoàn gọi “anh chị em nông-dân” lên “kể tội”. Tức thì, hàng trăm cánh tay giơ lên, nhưng liếc qua vào tờ giấy trước mặt, y gọi một tên. Người được chọn nhảy lên đài, chỉ tay vào mặt địa-chủ, hỏi : “Mày có nhớ tao là ai không ?”, và chẳng đợi câu trả lời, hắn tiếp luôn : “tao là. . . ở làng. . . đã đi ở (hoặc làm ruộng cho mày trong. . . năm”. Bao giờ người lên đấu cũng bắt đầu như vậy, hỏi “bâng quơ” một câu “mày có nhớ tao là ai không” rồi tự xưng danh, tóm tắt “tiểu-sử” của mình. Cán-bộ bắt họ làm như vậy để công chúng biết qua loa về quan-hệ giữa người đấu và người bị đấu. Người ngồi xem nhớ lại những buổi diễn tuồng tầu, mỗi khi một vai mới ra bao giờ cũng xưng danh : “Mỗ đây tên tự là… ” Sau đó người đấu tuôn ra một tràng những tội ác, kể lể nào là bị cướp trâu, cướp bò, đánh đập, nhét phân vào mồm, hiếp vợ, giết con, rủ vào hội “việt-gian”, vẫy tay cho máy bay Pháp, v.v… Ðiều đáng chú ý là người đứng lên đấu thường dùng đủ danh từ tục tĩu ; hình như cán-bộ xui họ chửi rủa địa-chủ bằng những câu tục tĩu nhất, một là để “hạ uy-tín” địa-chủ xuống tận đất đen, hai là để làm ra vẻ tự nhiên, dùng những lời ăn tiếng nói “một trăm phần trăm nông dân”. Người bị đấu không được phép trả lời, hoặc phản-ứng. Họ chỉ được phép nói “có” hay “không”. Nhưng hễ họ nói không thì tức khắc toàn thể đám đông gầm lên như sấm : “Ðả đảo thằng… ngoan cố”. Trong khi ấy, cứ chừng năm phút một, người bị đấu lại được chị công-an trưởng ra lệnh quỳ xuống, đứng lên, giơ tay lên, giang tay ra, và cứ như thế mãi. Mỗi người được phép tố địa-chủ trong 15 phút, và sau bốn người tố, nghĩa là vào khoảng một giờ đồng-hồ, thì người địa-chủ bị điệu đến trước “thư-ký đoàn” ký nhận vào một biên bản. Trong khi đấu, người thư-ký hý hoáy giả vờ biên chép, nhưng kỳ thực bản tội ác mà địa-chủ phải ký nhận đã đánh máy sẵn từ trước.

Ðịa-chủ hạng A bị đấu như vậy trong ba đêm liền. Ðêm đầu họ bị đấu về các “món nợ mồ hôi”, tức là những tội bóc lột nông-dân, như cướp trâu, cướp bò, cho vay nặng lãi, v.v… Ðêm thứ hai dành cho những “món nợ hạnh-phúc” nghĩa là những người lên đấu kể tội địa-chủ đã hiếp vợ mình (nếu là đàn ông) hoặc đã hiếp chính mình (nếu nguời đấu là đàn-bà). Ðêm thứ ba dành cho những “món nợ máu”. Ðịa chủ bị tố nào là giết vợ, giết con nông-dân, ra hiệu cho máy bay Pháp bắn chết dân làng. Ðêm thứ ba cũng là đêm tố cáo địa-chủ về các tội có tính cách chính-trị, đại khái như rủ rê người này người nọ vào tổ-chức phản-động, dò thám tin tức quân sự, nói với người này người kia rằng Pháp sẽ cho mình làm tỉnh-trưởng, huyện trưởng, v.v… Nếu người bị đấu cứ khăng khăng chối “không” thì những người lên đấu ngày hôm sau sẽ tố những tội càng ngày càng nặng cho đến, cuối cùng, sẽ phải đưa ra tòa án nhân-dân đặc-biệt, kết án tử-hình và xử bắn. Trái lại, nếu người bị đấu tỏ vẻ ngoan ngoãn, bị tố bất cứ tội gì cũng cứ nhận và ký vào biên bản thì thường thường không bị tố những tội quá nặng. Nhưng dù tất cả địa-chủ có khôn-ngoan đến đâu thì cũng có một số không thể nào thoát chết, vì Ðảng đã ấn-định một số tối thiểu phải chịu tử-hình tại mỗi xã. Ðúng ra thì Ðảng chỉ ấn-định một số tối thiểu nhưng nếu có nhiều người “ngoan-cố” thì số tử-hình có thể tăng thêm.

Thực ra thì Ðảng không muốn vượt qua con số tối thiểu, vì phương châm của Ðảng là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Hơn nữa, nếu nhiều địa-chủ nhất định không chịu nhận tội, thì người đi dự có thể có cảm tưởng là tất cả đều là bịa đặt, đều là nói điêu. Trái lại nếu địa-chủ nào cũng ngoan ngoãn nhận hết “tội ác” thì cảm tưởng sẽ là “anh chị em nông-dân chất phác, bao giờ cũng nói thật”. Vì uy-tín của nông-dân và của Ðảng, nên Ðảng chỉ cần địa-chủ nhận tội và sẽ nới tay, không xử bắn quá mức ấn-định. Trong đợt đầu, nhiều địa-chủ không hiểu nguyên tắc đó nên cứ khăng khăng chối. Kết quả là đa số bị xử tử. Tuy nhiên cái chết của họ đã là bài học cho những người sau. Dần dần mọi người đều hiểu rằng tất cả chỉ là một tấn bi-hài kịch. Người đấu cũng như người bị đấu chỉ là diễn viên của một tấn tuồng do Ðảng bày đặt ra và bắt mỗi người phải đóng một vai, không ai được phép trái ý Ðảng.

Ðịa-chủ ở mọi nơi đều bị tố những tội ác cùng một kiểu. Những tội điển hình là : treo cổ nông dân lên cây, nhốt nông dân vào cũi chó, bắt nông-dân liếm đờm, ăn phân (chỉ khác nhau ở thứ phân : bò, gà, người v.v..), đốt nhà nông-dân, dìm trẻ con xuống ao cho chết (bất cứ trước kia có đứa trẻ nào chết đuối thì bây giờ cũng là chết do địa-chủ dìm), bỏ thuốc độc xuống giếng, phá các cuộc họp của nông-dân, giết người (bất cứ ai chết bệnh cũng tố là do địa-chủ giết), hãm hiếp, v.v… Ðoạn văn sau đây trích ở tờ Nhân Dân, cơ quan chính thức của Ðảng, xuất bản ngày 2 tháng 2, 1956 kê khai những tội tương tự :

Ở xã Nghĩa-khê, thuộc tỉnh Bắc-Ninh, bọn địa-chủ tổ-chức mấy em thiếu nhi đi ăn cắp tài-liệu, ném đá vào các cuộc họp của nông-dân. Ở Liễu-Sơn, chúng dùng một em thiếu-nhi đi đốt nhà khổ chủ, nhưng bà con nông-dân kịp ngăn được: Thâm độc hơn, ở Liễu-Hà, chúng cho mấy em thiếu-nhi ăn bánh chưng có thuốc độc, làm mấy em bị ngộ độc suýt chết. Ở Vân-Trường chúng dụ dỗ em Sửu, 13 tuổi, rủ hai em gái nữa nhẩy xuống giếng tự tử để gây hoang mang trong thôn xóm. Ở Ðức-Phong (Hà-Tỉnh) chúng mua bài tu-lơ-khơ (bài Trung-Cộng mang sang) cho các em mãi chơi, bỏ trâu ăn lúa để phá hoại mùa màng.

Ðiều đáng chú ý là địa-chủ càng đạo-đức bao nhiêu, như thể linh-mục, hòa-thượng, và nhất là các nhà nho, thì càng bị quy nhiều “tội” hiếp-dâm bấy nhiêu. Nói chung thì hễ địa-chủ có vẻ đạo mạo (râu dài, trán sói, mục kỉnh) thì thế nào cũng bị quy những tội loạn luân. Trong rất nhiều trường hợp chính con gái địa-chủ lên trước khán-đài tố rằng chính bố mình đã hiếp mình. Người trong cuộc mới biết có sự thông đồng giữa bố con ; biết là bố thế nào cũng chết, người con gái đành tâm phải tố như vậy để . theo lời cán-bộ . được quy là trung nông, và như vậy có hy-vọng sống yên nuôi lũ em dại. Cũng theo kiểu ấy, địa-chủ càng có thành tích yêu nước bao nhiêu thì lại càng bị tố nhiều tội phản quốc bấy nhiêu. Vì tố không cần bằng cớ, nên từ cố kiếp nào, bất cứ trong làng có người nào chết cũng có thể tố là đã bị địa chủ giết. Bác-sĩ Nguyễn-đình-Phát, chủ đồn-điền ở Phủ-Quỳ, Nghệ-An và đại-biểu Quốc Hội Việt Minh, đã bị tố là đã giết 35 người, vì bấy nhiêu người đã chết vì bệnh sốt rét trong đồn-điền của ông ta. Trong một buổi đấu tố cụ Cử Lê-trọng-Nhị, làng Cổ-Ðịnh, tỉnh Thanh-hóa, một lãnh tụ phong-trào Văn Thân năm 1907-8 đã từng bị đầy ra Côn đảo trong chín năm, một mụ đàn bà trong làng chỉ vào mặt cụ và tố : “Mày có biết thằng con tao không phải là con bố nó, mà chính là con mày ? Trong khi chồng tao đi vắng, mày hiếp-dâm tao rồi tao sinh ra nó”. Cụ Cử Nhị năm ấy 75 tuổi, mụ đàn bà vào khoảng 60 và người con mụ chừng 40. Người làng làm tính nhẫm và nhớ lại, hồi mụ này sinh người con, cụ Cử Nhị còn đang nằm trong xà-lim Côn đảo, cách xa hai nghìn cây số.

Có nhiều địa-chủ tỏ ra rất bình-tĩnh suốt mấy buổi đấu tố. Một bà già ở Nghệ-An chẳng nói “có” mà cũng chẳng nói “không” hỏi câu nào bà ta cũng chỉ nhắc đi nhắc lại : “Xin anh em một viên đạn !” Ở Thanh-Hóa một người lên đấu bắt đầu bằng câu thường lệ : “Mày có nhớ tao là ai không ?” Ðịa-chủ nghiễm nhiên trả lời “Có chứ ! Mày là thằng… Năm ngoái mày ăn cắp của tao con gà”. Chủ-tọa buổi đấu ra lệnh bế mạc cuộc họp tức khắc. Một tuần sau, tổ-chức đấu lại, địa-chủ tỏ vẻ ngoan ngoãn hơn trước và tên “trộm gà” không thấy lên đấu nữa. Trong ba ngày đấu tố, người bị đấu được ăn uống đầy đủ. Bữa cơm có thể có thịt gà, thịt bò và nhiều thứ béo bổ khác, chè tầu, cà-phê. Ðịa-chủ được tẩm bổ có lẽ là để có đủ sức chịu đựng ba ngày hoặc ba đêm đấu tố ngoài trời, đứng lên quỳ xuống luôn luôn mà không bị ngất xỉu. Sau ba ngày đấu-tố, địa-chủ bị đưa đi trại giam chờ ngày tòa án nhân-dân đặc-biệt xét xử ? Trong khoảng thời gian đấu-tố, mỗi tỉnh xuất bản một tờ báo địa-phương lấy tên là “Lá Rừng” (ngụ ý tội ác của địa-chủ nhiều như là rừng) để tường thuật những vụ đấu tố trong toàn tỉnh. Tất cả công chức trong tỉnh đều phải đi “tham quan” nghĩa là về các làng có đấu tố để quan-sát chính-sách Cải-cách Ruộng-đất. Ðảng muốn họ đi sát với “anh em nông-dân” để am-tường nỗi khổ của anh em nông-dân và công-nhận chính-sách tiêu-diệt giai cấp địa-chủ của Ðảng là “hợp tính hợp lý”. Họ cũng “ba cùng” với nông-dân, nhưng chỉ được quan-sát, không được phát biểu ý kiến. Tuy-nhiên việc có mặt của họ cũng có phần lợi cho địa-chủ. Vì muốn tỏ cho họ thấy chính-sách của Ðảng rất đúng, nên cán-bộ cố gắng thận trọng hơn nên do đó, địa-chủ cũng được nới tay hơn. Một phần nào những người tới tham quan cũng là “thần bảo mạng của họ”.

Bước 6 : Xử án địa-chủ

Vài ngày sau cuộc đấu, một tòa án nhân dân đặc-biệt tới xã xử những người bị tố. Mỗi huyện thành lập một tòa án gồm toàn bần cố nông không có mảy may kiến-thức về luật-pháp và án lệ. Tòa gồm có một chánh án, vài thẩm phán và một công-cáo ủy-viên nhưng không hề có người biện hộ cho bị cáo. Tòa xử theo “biên bản cuộc đấu” và không cho bị cáo tự bào chữa. Bồi thẩm đoàn cũng gồm toàn nôngd ân đã làm chủ-tịch đoàn trong cuộc đấu tố. Án có thể từ năm năm khổ sai đến tử hình, kèm theo thu một phần hoặc toàn bộ tài-sản. Tịch-thu tài-sản chỉ là một việc “lấy lệ”, vì dù tòa không tuyên án tịch-thu thì sau này, tới chiến-dịch Cải-cách Ruộng-đất đích thực, toàn-bộ tài sản của mỗi địa-chủ cũng sẽ bị tịch-thu.

Những người bị kêu án tử-hình bị bắn ngay sau khi tuyên án và hố chôn đã đào sẵn, trước khi tòa nhóm họp. Hồi đầu, những người bị xử tử hình được phép tuyên-bố vài lời trước khi bị bắn, nhưng sau khi một người, trước khi chết, hô to : “Hồ-chí-Minh muôn năm ! Ðảng Lao-động muôn năm !” thì thủ tục “tư-sản” này bị bãi bỏ. Từ đó về sau, hể tòa tuyên án tử-hình thì tức khắc một cán-bộ đứng sau nạn nhân, nhanh tay nhét giẻ vào miệng và lôi đi. Một điều đáng thương cho những người bị hành-quyết là những tự-vệ xã cầm súng bắn phần nhiều mới cầm súng lần đầu, nên bắn trật bậy trật bạ. Nhiều nạn nhân bị lôi đi chôn chưa chết hẳn. Mồ chôn địa chủ bao giờ cũng san phẳng và cấy cỏ lên trên. Những cuộc xử bắn địa-chủ bao giờ cũng tổ chức thành biểu-tình. Công-chúng vỗ tay hoan-hô khi nạn nhân ngã gục dưới lằn đạn. Người tham dự đấu tố không khỏi liên tưởng đến cảnh mèo vồ chuột, mèo vờn đi vờn lại con chuột chán chê rồi mới cắn chết. Cộng-sản đối với địa-chủ cũng in hệt như vậy. Mang địa-chủ ra đấu-tố chán chê trong ba ngày liền, rồi vài hôm sau mới mang địa-chủ ra bắn. Họ làm như vậy hình như nhằm hai mục-đích : thỏa mãn bản năng tàn ác của một số cuồng tín và gieo khiếp đảm vào trong tâm hồn toàn thể nhân-dân.

Cảì-cách Ruộng-đất còn một hình-thức khác cần phải nói tới là chính sách “cô-lập địa-chủ”. Số người chết vì chính-sách này còn đông gấp mười số người bị Tòa án Nhân-dân Ðặc-biệt kêu án tử-hình.

Chính-sách “Cô-lập địa-chủ”

Hễ bị quy là địa-chủ thì tức khắc bị toàn thể dân làng coi như con chó ghẻ. Không ai được chào hỏi hoặc trò chuyện, trẻ con được phép, hoặc nói đúng hơn được khuyến khích ném đá, nếu chúng thấy địa-chủ ra đường hoặc đứng trước sân. Trong hơn một năm trời, từ ngày bắt đầu chiến-dịch thứ nhất đến ngày kết thúc chiến-dịch thứ hai, địa-chủ và gia-đình không được phép ra khỏi ngõ, trừ khi bị gọi ra ủy-ban có việc. Vì chính-sách “cô-lập” này, phần lớn gia-đình địa-chủ bị chết đói, trẻ con và người già chết trước, người lớn chết sau. Mục-đích của chính-sách vô cùng kinh khủng này là nhằm tiêu-diệt cho kỳ tuyệt giống “bóc lột” ở nông-thôn. Như đã nói ở phần trên, không hề có thống-kê về số người bị chết đói vì chính-sách “cô-lập địa-chủ” nhưng có thể ước đoán rằng đa số thành-phần giai-cấp “địa-chủ” đã bị chết như vậy. Trong bài diễn văn đọc trước Ðại-hội Toàn quốc của Mặt-trận Tổ-quốc, luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường đã nói : “Trong khi đập tan giai-cấp địa-chủ, ta không phân-biệt đối xử, ta để cho chết chóc thê thảm những người hoặc già cả, hoặc thơ ấu mà ta không chủ trương tiêu-diệt”. Cũng về mục này Nguyễn-hữu-Ðang, Bộ-trưởng bộ Văn-hóa trong chính-phủ Việt-minh đầu tiên, đã viết trong báo Nhân-Văn như sau :

“Trong Cải-cách Ruộng-đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục hình dã man), xử tử, xử bắn, tịch-thu tài-sản hết sức bừa bãi, bậy bạ, cũng như việc bao vây làm cho chết đói những thiếu-nhi vô tội trong các gia-đình địa-chủ, hoặc chính là nông-dân bị quy sai thành-phần”.

Quả thực ông Hồ đã chủ tâm diệt chủng giai-cấp địa-chủ không khác Ðức Quốc-xã diệt chủng người Do-Thái. Nhưng nếu so sánh, chúng ta có thể nói Hitler và Eichmann đường hoàng hơn ông Hồ và ông Mao, vì khi họ ra lệnh lùa người Do-Thái vào phòng hơi ngạt, họ ngang nhiên nhận lãnh trách-nhiệm về quyết-định của họ trước công-luận và trước lịch sử. Trái lại, ông Hồ và ông Mao muốn ban cho giai-cấp địa-chủ một cái “chết tự nhiên”, không ai mang tiếng giết họ, bắt họ phải “bất đắc kỳ tử”. Ngay cả sau Cải-cách Ruộng-đất, nếu ốm đau, địa-chủ và thân-thuộc cũng không được chữa chạy thuốc men, trong khi người Do-Thái dưới chế-độ Quốc-xã vẫn có bác-sĩ Do-Thái trông nom. Tình trạng này đã được luật-sư Nguyễn-mạnh-Tường tóm tắt như sau :

“Khi đưa tới bệnh-viện, một bệnh nhân cấp cứu, vấn-đề mang ra thảo luận trước tiên là : Bệnh-nhân thuộc thành-phần giai-cấp nào ? Chữa cho địa-chủ thì “mất lập-trường”. Ðể nó chết mới chứng minh mình có “lập-trường giai-cấp”.

Những địa-chủ còn sống sót tới phong-trào Sửa Sai . sau phong-trào hạ-bệ Stalin ở Nga . là nhờ được hàng xóm mủi lòng giúp đỡ bằng cách, tối đến, ném cơm và thuốc men qua hàng rào để cứu họ và gia-đình khỏi chết.

(còn tiếp)
 

Bài đã đăng: Mời quý bạn đọc bấm vào đây xem

Phần 1 Cái Vinh & Cái Nhục Của Một Tiểu Nhược Quốc

Phần 2 Nước Mất Lại Còn

Phần 3 Chuẩn Bị Thành Lập Chế Ðộ Ðộc Tài

Phần 4 Cải Tạo Tư Tưởng

Phần 5 Cải Cách Ruộng Đất
           
– Ðại cương về cải-cách ruộng-đất

March 22, 2008

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH TÀ ÁC VÀ BẨN THỈU CỦA CỘNG ĐẢNG VIỆT NAM

Ngay từ khi còn thai nghén, đảng Cộng sản Việt Nam đã là 1 chi bộ của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Bản chất của chúng đã là 1 lũ chính trị bán nước. Khi thành lập chúng làm gì có cơ sở. Bản thân Hồ Chí Minh và những tên tay sai phải chui rúc tại hang Pắc Bó. Chúng chỉ phụ họa theo làn sóng bạo lực cách mạng của Tầu Cộng, nối tiếp theo làn sóng đỏ của Các Mác-Lê Nin tại Liên Sô. Đây là bộ đầu não tạo đảo chính tại các nước trên toàn cầu, mà chính đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng chỉ là 1 chi bộ của Cộng Sản quốc tế, phải chấp hành theo lộ tuyến do Hồng quân Liên Sô vạch ra để cướp đoạt chính quyền bằng võ trang và bạo lực cách mạng.

Ở một đất nước có truyền thống văn hóa lâu dài, có nền văn minh nông nghiệp và lối sống bình dị, hiền hòa của người Việt Nam, thì việc gieo cấy tư tưởng Cộng Sản chẳng có chút gì ăn nhập hay thích hợp với dân tộc Việt Nam. Do đó, muốn gieo rắc tà thuyết Cộng Sản ngoại lai này, Việt Cộng phải tiến hành các kế hoạch bẩn thỉu, tạo ra một qúa trình liên tục tích lũy tà ác, bất lương, vô nhân tính nhất trong lịch sử nhân loại:

1- LỪA BỊP GIAI CẤP:
Đầu tiên chúng phải khoác lên cái vỏ bọc “đấu tranh giai cấp” để lừa bịp thành phần nông dân vô sản muốn vùng lên làm chủ đất. Tuyên Ngôn của đảng Cộng Sản Việt Nam là lấy mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp làm cơ sở cho quan điểm lịch sử và là cốt lõi “triết học” nông cạn của Việt Cộng, dựa trên quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất cổ điển. Chúng đã dự đoán phiến diện và thiển cận rằng chủ nghĩa tư bản sẽ bị diệt vong. Nhưng thực tế chỉ là một hình thức dùng “bạo lực cách mạng và chuyên chính vô sản cướp chính quyền” và sau khi cướp được, chúng lại áp dụng một thứ công thức quái gở với định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng qua kinh tế thị trường”, là một nối dài của tư bản chủ nghĩa. Chính bạo lực khiến con người trở nên bạo ngược, nên tà thuyết này của Cộng Sản đều bị con người khắp nơi chối bỏ. Thiên tính của con người là hiền lương, tẩy chay bạo lực, mà hệ thống Cộng Sản chủ trương lấy khủng bố làm cốt lõi, là chối bỏ truyền thống của nhân loại.

Dù chúng khéo che đậy đến đâu, cũng chỉ là nhất thời. Khi bị lộ tẩy, tất nhiên phải bị đào thải. Những khẩu hiệu “giải phóng toàn nhân loại” hay “thế giới đại đồng” của Cộng Sản cũng thu hút và lừa gạt được một số người. Nhất là những kẻ duy lý cực đoan, thù hận xã hội, hay có tham vọng muốn lập chiến tích để ghi danh với lịch sử. Tuy nhiên, vì quan niệm tà ác ấy có tiền đề là đối chọi thiên nhiên, lấy sức người thách thức tạo hóa, đưa ra những thứ hoang tưởng như “thiên đàng Cộng Sản” hay “làm theo sức, hưởng theo nhu cầu” khiến chúng mù quáng tin rằng hiện đại hóa sẽ đem lại tất cả, nên miệt thị gía trị văn hóa truyền thống, coi thường đạo đức dân tộc và ổn định xã hội. Cái vỏ “cống hiến vẻ vang” của Việt Cộng thật sự là cực kỳ phản động và tà ác, đã và đang đảo ngược quan hệ giữa con người, cắt đứt chính họ với gia tộc, tổ tông, phá nát huyết mạch truyền thống tích tụ hằng ngàn năm khiến đảng viên u mê hiến thân cho chúng tạo ra sức tàn sát, phá hoại của Cộng đảng Việt Nam.

2- DỐI GẠT QUẦN CHÚNG, NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO:
Vì tà ác, Cộng Sản luôn nói một đàng làm một nẻo và dối gạt quần chúng không ngừng. Để lợi dụng công nhân thì chúng đưa ra mỹ từ “công nhân tiên tiến”, “giai cấp lãnh đạo”, “đội quân tiên phong của cách mạng” v.v… Để lợi dụng nông dân, Việt Cộng đưa ra câu: “Nông dân là cốt lõi của chuyên chính vô sản”, “không có bần nông thì không có cách mạng” và hứa hẹn “nông dân làm chủ đất nước” v.v… ngay cả giai cấp tiểu tư sản. Khi cần họ quyên tiền ủng hộ thì Việt Cộng gọi là “bạn đồng hành cách mạng” là “tư bản ái quốc”, “Tư bản Dân Tộc”. Nhưng sau khi cướp được chính quyền thì cả tiểu tư sản hay nông dân, công nhân đều bị tước đoạt đến vô sản triệt đễ chẳng còn chút sở hữu nào cả. Thậm chí giới tiểu tư sản bị biến dạng thành “địa chủ” và bị mang ra đấu tố sát hại thẳng tay. “Cải Cách Ruộng Đất” để tiêu diệt giai cấp địa chủ và sau đó “Cải Tạo Công Thương” để diệt giai cấp tư bản “Dân Tộc” sau khi dùng giai cấp này để tố cáo giai cấp “phú nông”, “địa chủ bốc lột” hay “phản
động”.

Tất cả chỉ toàn là thuật ngữ do Cộng đảng tạo ra để qui tội hay lợi dụng một thành phần nào đó trong quần chúng và sau đó, chúng tiêu diệt tất cả để chỉ còn những con vật chỉ biết suy nghĩ theo những gì mà Cộng đảng muốn họ suy nghĩ hay làm những gì mà Cộng đảng muốn họ cung phụng. Cộng đảng muốn dân chúng phải suy nghĩ rằng: Nếu không có Cộng đảng, thì không có tiến bộ. Thật tế, tất cả thành qủa trong xã hội, trong đời sống là do sự nỗ lực làm việc của toàn dân, mà nếu không có sự bức chế của Cộng Sản, thì xã hội sẽ càng tiến triển khả quan hơn. Ngay như qúa trình lập quốc của Dân Tộc Việt Nam, không cần có Việt Cộng chúng ta cũng ngăn được giặc Minh, đánh tan giặc Ân, phá quân nhà Thanh. Nhưng từ lúc Hồ Chí Minh và Cộng đảng xuất hiện, dân ta lại trở thành nô lệ cho Tầu, đàn em của Liên Xô, những thứ “đàn anh vĩ đại” thô bỉ, tham lam vô đáy. Còn “đánh Mỹ cứu nước” xong, cả nước trở thành một nhà tù vĩ đại nhất trong Việt Sử. Tù tập trung và tù chưa tập trung đều giống nhau là không biết ngày mai, không biết tương lai, chỉ lao động quần quật như trâu, bò.

Khác nhau là tù tập trung thì có quản giáo kìm kẹp. Còn tù không tập trung thì do công an khu vực theo dõi và thêm trách nhiệm phải làm vừa lòng lũ chó săn khu vực để được an thân chăm lo tù tập trung bởi lương tâm và nhân tính bản thiện còn sót lại của truyền thống gia tộc. Tất cả đều trong tay sinh sát của Cộng đảng. Như lớp tôm cá nằm trong lưới và lớp tôm cá đã được chứa trong thùng. Nhưng tất cả đều là thận phận con mồi béo bở cho lũ Cộng đảng tùy tiện hút máu hay xẻ thịt.

3- XÚI BẨY NHÂN DÂN KÌNH CHỐNG NHAU:
Ngoài việc lừa dối để reo rắc thù hận, Việt Cộng luôn xúi bẩy nhân dân phân nhóm để đấu tố, kình chống nhau. Chúng gây oán hờn giữa chủ và thợ, gây căm phẫn giữa chủ đất và tá điền, đảo lộn tự nhiên hài hòa thành hỗn loạn, thù nghịch.
Việt Cộng học theo Tầu Cộng, chủ trương tước đoạt tài sản, vừa cướp vừa giết. Giết bản thân địa chủ rồi giết cả người nhà, rồi giết cả gia tộc của địa chủ phú nông. Chính những nông dân còn lương tính không muốn dự phần cướp đoạt, sát hại chủ điền bị Việt Cộng lên án là “xét lại” là “chưa đả thông tư tưởng”. Việt Công dụng công thức 10-1 theo cách 95-5 của Tầu Cộng. Chúng chia dân chúng ra 2 thành phần. 10 và 1. Ai rơi vào thành phần 10 thì tạm an toàn vô sự. Còn rơi vào thành phần số 1 thì bị coi như kẻ thù, cần phải thanh trừng. Vì sợ hãi và muốn an toàn nên người dân phải tự đấu đá nhau để được lọt vào thành phần 10.

Đấu đá này đã gây thù hận sâu sắc trong quần chúng. Đi từ các tổ dân phố cho đến toàn dân. Qua từng chiến dịch, Việt Cộng lần lần cô lập đối tượng, củng cố quyền lực và sau đó mới áp đặt nô dịch người dân càng ngày càng thâm, càng sâu. Ai cũng có thể trở thành một thứ “mật báo viên” không lương, không có quyền lợi, chỉ để được lọt vào thành phần số 10. Còn ai thuộc thành phần số 1 sẽ bị theo dõi, bị cô lập, bị khủng bố, bị áp đảo tinh thần và bằng những hình luật không có văn bản. Tương lai sẽ bị đưa vào các trại tập trung, các tù cải tạo không có ngày mai và không biết ngày về.

4- LƯU MANH LÀ CỐT LỎI CỦA CỘNG ĐẢNG:
Lấy kẻ lưu manh, ngu tối, cặn bã của xã hội thành lập đội ngũ cơ bản là khung thành của Cộng đảng. Những ngòi cách mạng thường xuất phát từ những phần tử này. Ví dụ “Công Xã Paris” do chính những kẻ sát nhân, tội phạm làm chủ chốt.
Thành phần này vốn là những tên đầu trộm đuôi cướp. Chúng không có ngày mai, không có tương lai để ngóng chờ, không có qúa khứ để luyến tiếc hay tài sản vật chất lẫn giá trị tinh thần để thương tổn, nên chúng thường là những tên dám làm, không chần chừ hay do dự, đắn đo.

Chính Mao Trạch Đông cũng đã thú nhận: “Lưu manh cặn bả là tầng lớp vất đi của xã hội, nhưng trong cách mạng nông thôn thì họ dũng cảm, kiên quyết, triệt đễ nhất” (Mao 1927). Theo sự dạy dỗ này của Tầu Cộng, những tên Đỗ Mười, Lê Duẩn là những phần tử xuất thân từ giới cặn bã này, đã được đưa vào Nam để gây rối, chọc thủng nề nếp nho giáo, phóng khoáng của miền Nam. Đối phó với lũ lưu manh này thường chỉ có những “anh hùng hảo hớn” hay hào kiệt phóng đãng mới khắc chế được.

Tiếc thay Đệ Nhất Cộng Hòa đã không có chính sách tùy cơ nên đã tảo thanh những lực lượng của Ba Cụt, Bảy Viễn, khiến những lá chắn cứng cáp này bị xuyên thủng. Do đó, những hành động vô lại như chửi thề, cưỡng hiếp phụ nử, dâm loạn với vợ cấp dưới, thanh trừng đẫm máu là chuyện thường sảy ra trong giới trùm Cộng đảng Việt Nam. Đối với người lương thiện thì nó thật kinh khủng và khiếp hãi. Nhưng đối với Cộng đảng thì đó là “tư cách”. Ngay sau khi chiếm miền Nam. Chính Nguyễn Hộ đã tuyên bố: “Vợ Ngụy ta chơi, con Ngụy ta sai, nhà Ngụy ta lấy, còn Ngụy thì đuổi lên rừng sâu nước độc cho tàn đời”. Đó là “chính sách” cốt lõi của Việt Cộng chứ không phải do cá nhân Nguyễn Hộ đề ra.

5- GIÁN ĐIỆP – LY GIÁN, MUA CHUỘC:
Ngoài những ngón nghề vô lại trên, Việt Cộng cũng thạo món gián điệp, phản gián, ly gián, mua chuộc. Thủ đoạn DỤ – DỖ – DỌA – DIỆT dùng nhà tù làm nơi gia nhập đảng, làm trại huấn luyện, là ngón nghề của Việt Cộng. Những cá nhân mà chúng nhắm tới thì đầu tiên chúng cho người tiếp cận, dùng lời ngon ngọt hứa hẹn, rũ rê (DỤ). Nếu ai vướng bẫy thì thôi. Còn như không nghe, thì chính chúng sẽ báo quan hay báo cho chính quyền sở tại vu khống cho họ là có quan hệ với Việt Cộng. Thế là họ bị điều tra, thậm chí bị tù đầy oan uổng do sự cứng ngắc, làm việc thiếu chính xác của chính quyền. Trong nhà tù, cán bộ Việt Cộng sẽ lân la an ủi, dỗ dành, tìm cách móc nối họ theo chúng (DỖ). Nếu họ bị lừa sụp bẫy thì thôi.

Còn như tuy ấm ức vì bị bắt oan, nhưng vẫn còn đủ lý trí để xa lánh Việt Cộng, thì khi những người này được thả ra, chúng lại mò đến dùng thủ đoạn dọa dẫm nếu họ không theo chúng, sẽ bị báo quan là có liên lạc với Việt Cộng, là điều cấm kỵ. Vì khi được thả ra mà còn tái phạm sẽ bị tù nặng hơn (DỌA). Do đó đành phải cắn răng bước theo chúng ngụp lặn dần trong hố tội lỗi, đọa đày ngày càng sâu nặng hơn không làm sao rút chân ra khỏi. Còn như tới giai đọan thứ 3 này mà ai còn không nghe theo chúng sẽ bị thủ tiêu ngay (DIỆT) rồi vu khống cho chính quyền trả thù, như một ná bắn hai chim.

Riêng ngón “gián điệp” đã được Việt Cộng học từ Tầu Cộng, qua sự chỉ đạo của Trần Canh, chủ nhiệm trường Đặc Vụ Trung Ương của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đã từng dùng Tiền Tráng Phi là Bí Thư Cơ Yếu của Trung Hoa Quốc Dân Đảng báo tin tức hành quân cho
Lý Khắc Nông, cận thần của Chu Ân Lai. Hay Tầu Cộng đã cài Trung Tướng Lưu Phi, Thứ trưởng quốc phòng của Quốc Dân Đảng Trung Hoa làm mật báo cho Mao Trạch Đông, nên quân tình bị tiết lộ trước, khiến Tưởng Giới Thạch thua siểng liểng. Đầy tớ Hồ Chí Minh cũng chạy theo đuôi chủ, cũng cài Trung Tướng Nguyễn Bình vào Nam thực hiện ly gián các lực lượng võ trang của Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo. Tuy là đệ tử của Tầu Cộng.

Nhưng do Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam. Y là một gián điệp Tầu Cộng được cài vào gây chia rẽ, gây thảm sát Đông Dương, tiêu diệt sức kháng cự của những lực lượng yêu nước, nên Hồ còn ra tay ác độc hơn cả chủ. Y đã cho ám sát Nguyễn Bình để diệt khẩu. Cả Nguyễn Sơn, một tay du kích chiến lỗi lạc do chính Hồ Chí Minh phái vào Nam cũng bị y thủ tiêu trên đường triệu hồi về Bắc vì sợ uy tín của Sơn gia tăng, sẽ được Tầu Cộng tin dùng hơn, sau khi Sơn hoàn thành công tác phá vỡ các lực lượng du kích miền Nam. Hiện nay, Việt Cộng cũng đang ve vản người Việt tại hải ngoại qua những mỹ từ “khúc ruột ngàn dặm”, “Việt kiều thương nhớ quê hương”.

Mà trước đó, những Việt kiều này khi vượt biên mà bị chúng thộp được thì tàn đời. Một trong ngón bỉ ổi nhất mà Việt Công dùng để cài điệp, đó là CHỖ KÍN CỦA PHỤ NỬ. Theo tiết lộ của Thượng Tướng (VC) Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy Ban Quân Quản và Trung Tướng (VC) Đỗ Xuân Diễn, Tư Lệnh Quân Đoàn Trường Sơn, thì trong thập niên 1960, Việt Cộng thường đắp mô trên quốc lộ I chặn xe đò trong các khoảng đường gần miền rừng núi. Chờ đêm đến, chúng thả bộ đội ra hãm hiếp phụ nử để “hộ lý”. Đến sáng, khi Quân Đội VNCH đến giải tỏa thì chúng trốn về rừng. Trong số các thiếu nữ nạn nhân bị hiếp có người mang thai, phải gả lấy chồng gấp để tránh tiếng đẻ hoang. Sau khi sinh nở, thì Việt Cộng tại địa phương lần mò đến móc nối những thiếu nữ có chồng là sĩ quan hay quân đội đồng minh. Vì lo cho con mất cha, dù không biết cha của con mình là ai, những nạn nhân đó đã phải thông báo cho giặc những tin tức hành quân để chúng kịp thời đào thoát các cuộc truy kích hay dội bom. Đó là cách cài điệp bỉ ổi mà Việt Công cho là “tinh vi” nhất.

6- TRẤN LỘT NGƯỜI CÓ TÀI SẢN:
Việt Cộng còn dùng bạo lực để trấn lột những người giầu có tại địa phương để trả kinh phí, để nuôi đám công an khu vực như chó sói dòm mồi. Ngón bắt cóc, tra khảo, tống tiền là sở trường của chúng. Thủ đoạn dùng lợi nhỏ chiêu dụ và phân gián các tầng lớp nhân dân dưới những chiêu bài như “đả đảo địa chủ để lấy ruộng, giết phú hào để lấy nhà” hay “truy nã vượt biên để khảo của” là chuyện bình thường dưới mắt Việt Cộng, nếu không nói là chúng còn tự hào về những hành động côn đồ, bỉ ổi này. Nhiều gia đình bị bắt vì tội “vượt biên”, đã bị trấn lột, khảo của cho đến cạn kiệt tiền, da bọc xương. Khi được thả về đến nhà thì kiệt lực, tiêu tán tài sản, tàn hơi ngã chết.

Hệ thống công an khu vực LÀ MỘT MÀN LƯỚI theo dõi, áp đảo và trấn lột lưu manh nhất mà Cộng đảng sử dụng để khủng bố tinh thần dân chúng, biến nhân dân thành những bầy tôi trung thành, ngoan ngoãn dưới ách nô dịch của chúng. Vũ khí mà Cộng đảng dùng để trấn lột dân, duy trì hệ thống cai trị bạo ngược của chúng chính là hệ thống kiểm soát, mà “công an khu vực” chính là công cụ hữu hiệu nhất để đe dọa, áp đặt tinh thần “tuân thủ” lên mỗi người dân. Cho dù Việt Cộng có mâu thuẩn với chính nó hay liên tục thay đổi “chính sách” cũng không thành vấn đề. Vấn đề là đảng vẫn kiểm soát được nhân dân qua hệ thống công an khu vực và tổ dân phố. Sự kiểm soát này không dừng lại trong việc trấn lột, hành xác, mà còn tàn nhẫn bắt nhân dân phải sợ, phải tự hủy các khả năng suy nghĩ độc lập, phải co cụm nhát gan không dám mở miệng hay chỉ mở miệng lặp lại những gì chúng đưa ra, cung phụng những gì mà chúng để ý ham muốn.

7- TẢY NÃO DÂN CHÚNG:
Mục tiêu của Cộng đảng là tẩy não mọi công dân của nó để họ phải suy nghĩ và nói giống như đảng muốn, làm bất kể điều gì chúng tuyên truyền và phải biết cám ơn đảng vì nhờ đảng mới hưởng được những “ân huệ” này. Khi bạn được sử dụng như một phương tiện để tấn công người khác, dù là để tàn hại chính thân nhân của bạn, thì phải cám ơn đảng vì đảng đã đánh gía cao sự trung kiên của bạn. Khi bạn bị đả kích cũng phải cám ơn đảng vì đã giúp bạn phấn đấu, cải tạo. Khi bạn bị đả kích vì hiểu sai, sau đó đảng khôi phục cho bạn thì phải cám ơn đảng đã khoan dung. Những ai suy nghĩ ngoài phạm vi này thì đó là phản động, là tội ác với nhân dân. Tất cả thủ đoạn này được đưa ra để cầm tù suy nghĩ và áp chế tư tưởng của nhân dân. Sự ngu đần được đề cao là “chấp hành tốt”, hèn hạ, nhát gan được coi là “đã thông tư tưởng” và đề cao đảng như thần thánh, như cha mẹ, được gọi là “tiên tiến”. Cuối cùng, ai còn chút lương tri và lương thiện mà phải sống dưới móng vuốt Công đảng, đành phải tự che dấu nội tâm, đè nén suy tư, sống giả tạo với mọi người và lừa gạt chính họ mới có thể tồn tại.

8- PHÁ HOẠI TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC:
Ngón “phá hoại truyền thống và chế độ Quốc Gia” cũng là một trong những lộ tuyến của Việt Cộng. Nguy hiểm hơn nữa vì tuy là một đảng cướp. Nhưng Cộng đảng có tổ chức, có mục tiêu dài hạn và thủ đoạn có sách lược. Chúng không chỉ thuần thúy là một đảng cướp có vỏ trang, mà còn là một thứ vi trùng tấn công vào cơ thể nhân loại, công phá vào các tập quán, tư tưởng truyền thống của dân tộc dưới những chiêu bài “cách mạng”, “diệt cường hào, ác bá” để thanh toán các cấu trúc lâu đời trong nhân gian. “Cách mạng” theo nghĩa của Cộng Sản là bạo động, là dùng võ trang, bạo lực cướp chính quyền. Nhưng tập quán lâu đời của người nông dân Việt Nam là lối sống thâm tình, nồng hậu, hiền hòa và lương thiện. Họ rất yêu thương ruộng đồng, siêng năng cày cấy, vui với xóm làng, chan hòa với bà con lối xóm. Nếu không phá nát truyền thống khiêm cung, ôn hòa, an lạc này của nông dân, thì làm sao Việt Cộng có thể tạo được làn sóng sắt máu, dã man để đấu tố giết địa chủ cướp đất, cướp nhà nộp cho đảng. Còn kẻ đứng ra chỉ điểm hay hung hăng đấu tố giết người chỉ được tiếng là “tiến bộ” chứ không được chia chác gì cả. Mà đôi khi trong những đợt “cách mạng” kế tiếp, những kẻ này lại bị mang ra đấu tố với tội danh “phản cách mạng” hay “biến chất” để diệt khẩu.

Ngón phá hoại truyền thống lương tri và trật tự xã hội qua những “kinh nghiệm” triển khai của Cộng đảng càng ngày càng trở nên thâm độc. Nó diệt sạch tư tưởng, nhân tính và nề nếp xã hội có từ lâu đời, thay vào đó bằng cụm từ “lý tưởng cách mạng”; có nghĩa là chỉ có Cộng đảng mà thôi, không có Trời, không cần Đất, mà cũng chẳng kể đến liêm sỉ và lương tính. Có đảng thì “sỏi đá cũng thành cơm”. Nhưng đảng không ăn sỏi đá, mà đảng cần có cơm ngon, thịt ngọt và gái đẹp cung phụng. Với đảng thì “không có gì qúi hơn độc lập, tự do”. Quí cho đến nỗi không bao giờ người dân có được. Chỉ có đảng mới có “độc lập, tư do” quyết định, không cần dân ủng hộ, mà chỉ cần đàn áp để dân phải ngoan ngoản nghe theo. Nên nhớ Cộng đảng sẵn sàng thủ tiêu bạn vì bạn chống lại nó. Nhưng cũng có thể tiêu diệt bạn vì bạn ủng hộ nó, nếu nó thấy cần tiêu diệt ai, thì nó sẽ tìm cách tiêu diệt, dù là phải mềm dẻo, cận lân rồi mới tiêu diệt.

Do đó, ai đã sống với Cộng đảng hay biết chân tướng của nó đều kinh hãi Cộng đảng; vì với nó, tất cả chỉ là phương tiện để phục vụ cứu cánh duy nhất của Việt Cộng là quyền lợi và sự tồn tại của chúng.

9- DIỆT CHỦNG:

Một thủ đoạn khác của Việt Cộng là diệt chủng. Tất cả những qui trình của Cộng đảng đều xuất phát từ cơ sở lý luận diệt chủng đã học từ Tầu Cộng, đều là những chiến dịch khủng bố, mang tính diệt sạch mọi giai cấp từ trên xuống, để cuối cùng chỉ còn 1 giai cấp đó là giai cấp Việt Cộng sắt máu. Chúng dùng “tư bản DânTộc” diệt “tư sản mại bản”, dùng “tiểu tư sản” diệt “tư bản Dân Tộc”, dùng công nhân diệt tiểu tư sản và dùng nông dân để trấn áp công nhân. Cuối cùng chỉ còn tầng lớp thống trị với những nông dân “cách mạng”, là những tên vô học, dã man và sắt máu như kiểu Lê Duẫn, Đỗ Mười, là tầng lớp chí cốt của Cộng đảng.

Mỗi một chiến dịch của qúa trình Cộng đảng đều mang tính khủng bố, diệt sạch từng tầng lớp nhân dân. Từ khởi đầu, Việt Cộng đã cố hoàn chỉnh tư tưởng diệt chủng qua các lý luận có hình thức ngụy cách mạng như: “đấu tố giai cấp”, “đấu tranh cách mạng”, “bạo lực chuyên chính”, “vận động quần chúng” v.v…thực chất là chia dân chúng ra từng thành phần, rồi dùng số đông đè bẹp, tiêu diệt thiểu số.

Cuối cùng cả đám đông “quần chúng” chỉ là thân trâu bò, tôi mọi, không thoát được công an dòm ngó và họng súng canh chừng, sẵn sàng và dể dàng bị thanh trừng nếu dám thức tỉnh lương tri, mở mắt tìm hiểu sự thật về hoạt động của đảng. Hiện nay, do phải quan hệ với thế giới bên ngoài, để ve vản khách mua – bán, Việt Cộng không thể đưa những tên vô lại, dốt đặc cán mai ra nói chuyện, đành phải lôi cổ những tên có chút vỏ bọc có học như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết ra đánh bóng để lường gạt quốc tế. Như chúng đã từng nặn ra hình ảnh gỉa tạo của Hồ Chí Minh để chiêu dụ thế giới. May thay âm mưu này đã bị đồng bào chúng ta đập vỡ, đã vạch mặt tên Hồ Chí Minh chỉ là gián điệp Tầu Cộng giả mạo người Việt Nam với âm mưu thực hiện nhuộm đỏ Đông Nam Á.

Chính sự khám phá này đã kéo theo sự sụp đổ hệ thống “tư tưởng Hồ”, một thứ trò hề ăn cắp, đạo văn người khác. Tuy nhiên, dù đang là con rối cần thiết. Nhưng chính Nguyễn Tấn Dũng cũng bị răn đe không dám tự hành sự, phải chịu sự chỉ đạo của lũ gìa, dốt, khốn nạn trong nhóm quyền lực đảng. Còn Nguyễn Minh Triết, một tên dốt nát, từng mua bằng tú tài giả để xin gia nhập Học Viện Quốc Gia Hành Chánh khóa 2 hầu trốn nghĩa vụ quân dịch. Bị phát giác đuổi khỏi trường, không còn chỗ ẩn náu nên y mới trốn vào bưng theo Việt Cộng. Thành phần này cũng có thể làm đến “Chủ tịch Nhà Nước XHCNVN” thì đủ hiểu gía trị của chúng tới đâu.

February 28, 2008

Công an Bạc Liêu mù lòa đạo lý .

27/02/2008

Xem hình
Tổng Biên Tập Báo Bạc Liêu là Ông Nguyễn Duy Hoàng, Điện thoại Phòng Biên Tập (0781) 828.895, Phòng Trị Sự: (0781)824.838 E.mail: thanh_baobl@yahoo.com  Bài viết được đăng tải trên báo Bạc Liêu tựa đề “Huỳnh Văn Ba Vẫn Chứng Nào Tật Nấy, số ra lần cuối ngày thứ Năm, 24-01-2008, của tác giả nhóm PV.CT-XH. Mặc dù, không nói rõ tên nhưng thực chất là của Phòng An ninh Điêu tra tỉnh Bạc Liêu, dưới sự điều hành của trung tá Nguyễn Đức Minh.

Có lẽ không thoả mãn những buổi bức cung, dụ cung trong lúc điều tra cũng như khi tôi đã công khai lên tiếng vạch trần các tỳ vết sai phạm pháp luật của trung tá Nguyễn Đức Minh, trung tá Trịnh Văn Tư, trung uý Nguyễn Việt Bằng và Nguyễn Thanh Sơn luật nên công an Điểu tra tỉnh Bạc Liêu đã quay ngược công lý, trả thù cá nhân, gởi bài viết cho Báo Bạc Liêu đăng tải tiếp theo lần 3 với nội dung nữa thật,nữa giả, nguỵ tạo, nguỵ tín để đánh lừa dư luận,mị dân bôi bẩn bản thân tôi.


Trước nhất: Bài báo chụp mũ Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam là một tổ chức phản động, âm mưu lật đổ chính quyền

Tiếp theo: Bài báo xác nhận Kỷ Sư Trương Minh Nguyệt, Phó Hội Trưởng Hội Ái Hữu TNCT&TGVN và Kỷ Sư Nguyễn Văn Ngọc tự tách ra khỏi Hội để tham gia tổ chức chính trị của Lĩnh ở ( Hà Nội) với danh xưng “Nhóm ngườiViệt Nam yêu nước” chỉ là nhóm nhỏ không phải Đảng phái mà lại bắt bỏ tù và truy tố xét xử kín tại toà án tỉnh Đồng Nai là điều vô luật pháp. Sự quy kết nói trên đã là tàn nhẫn, độc ác, vô lương tri rồi! Bài báo không dừng tại đây! Có lẽ bí lối cuống cuồng nên Cơ quan Điều tra công an tỉnh Bạc Liêu còn tung tin trơ trẽn, vô liêm sĩ khi đối biết tượng là Thầy Tu nên triệt hạ thẳng tay bằng cách gán ghép thêm về“ Nữ Sắc” để bôi nhọ,bỉ báng hình ảnh tôn giáo của người xuất gia, và cho đây là đòn chí tử hạ gục đối phương là tôi! Sẵn đây tôi xin tường thuật cách đây 9 tháng bài báo Bạc Liêu số ra ngày 20-3-2007 trang 6 tác giả “Bảo Bảo” Đoạn : Đại đức Thích Giác Tiết (thuộc phật giáo Nhà nước) trụ trì chùa Châu Viên, xã Châu Thới, Huyện Vĩnh Lợi ông ta không những chỉ vu cáo, bôi nhọ danh dự cá nhân tôi, mà còn phá hại chính sách của Đảng CS và Nhà nước VN tạo mâu thuẫn giữa tôn giáo và chính quyền, gây hoang mang dư luận quần chúng. Tôi đã gởi đơn khiếu nại đến ông Nguyễn Duy Hoàng Tổng biên tập báo Bạc Liêu, ông Danh Thánh Hiền phó ban tôn giáo dân tộc tỉnh Bạc Liêu, Ban trị sự phật giáo Nhà nước tỉnh Bạc Liêu, Phòng công an PA25 và Sở Bưu chính viễn thông tỉnh Bạc Liêu nhưng chẳng có cơ quan nào giải quyết, trái lại khám xét nhà vào ngày 2-12-2007 vừa qua, ông Nguyễn Đức Minh và Nguyễn Thanh Sơn đã đánh cắp các bài báo nói trên không để vào thùng niêm phong tang vật! tôi không biết dùng từ ngữ gì để diễn tả hành động nói trên.

Chuyện bịa đặt, vu vạ của báo Bạc Liêu hay báo An ninh thế giới chẳng còn ai xa lạ gì những mưu sâu kế hiểm của kẻ ác đạo,cường quyền! Nhất là chính quyền VN muốn triệt huỷ những nhà đấu tranh Dân chủ và các tôn giáo không được chính quyền thừa nhận vì không chịu cam tâm làm công cụ hay cánh tay nối dài của Đảng CSVN. Tôi tiên liệu từ lâu có 4 điều CS sẽ giàn dựng để bôi tro trát trấu các nhà Dân chủ và tôi đã từng công bố trên các phương tiện truyền thông

1/ Sắcđẹp
2/Tiền Bạc
3/ Tư tưởng Cực Đoan, quá khích
4/ Danh vọng( tham quyền cố vị)

Là người tu hành tôi luôn ý thức các tôn giáo nói chung và GHPGVNTN nói riêng đang thời kỳ bị Pháp Nạn, trong thời điểm Pháp nhược ma cường, giáo hội chúng tôi gặp nhiều ác duyên ma chướng, đồng chung số phận bi thống của sinh dân, chịu chung thăng trầm vinh nhục đau thương của cả dân tộc! tôi là thành viên của GHPGVNTN nên gặp nhiều thử thách gian truân và là Hội trưởng Hội Ái Hữu tôi biết chắc chắn không tránh khỏi bị chính quyền khủng bố và sách nhiễu, cho dù gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm nào tôi cũng không sờn lòng nản chí!

Nay,tôi bị công an tỉnh Bạc Liêu, bất chấp luật pháp, ỷ chúng hiếp cô “vừa ăn cướp vừa la làng” vừa đàn áp vừa giở giọng đe doạ, đăng báo theo kiểu đánh trống cho to, “ cả vú lấp miệng em” công an tỉnh Bạc Liêu ăn cướp của người mà còn la thật lớn để mọi người tưởng mình là nạn nhân bị cướp.  Ngoài ra,còn dùng lời lẽ phi văn hoá, phi nhân tính, trân tráo, quê kệch, kém hiểu biết đăng báo cho rằng Huỳnh Văn Ba, tự xưng là Thích Thiện Minh, Hồ Bữu Hoa tự xưng là Thích Nhật Ban đúng là kẻ hung đồ vô thần biết chi là Đạo giáo. Đã sai phạm pháp luật khi khám xét nhà,bắt người, niêm phong tài sản, ép buộc tôi tháo gở niêm phong sai nguyên tắc v.v…mà còn tìm mọi cách vu khống để lấp liếm che đậy sự sai phạm luật pháp của mình! Điều đáng nói là trong lúc các cơ quan ban ngành trong toàn quốc từ trung ương đến địa phương , và công an tỉnh Bạc Liêu đang học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, tôi thắc mắc chẳng lẽ Tư Tưởng Cụ Hồ dạy công an tỉnh Bạc Liêu, dạy cơ quan Điều tra tỉnh Bạc Liêu như thế sao?

Khi làm việc tại Cơ quan Điều tra, tôi đã giải thích rõ, mục đích của Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn Giáo Việt Nam là thể hiện sự tương thân tương ái giữa những người đồng tù có hoàn cảnh khốn khó, Hội chủ trương nhân đạo và tình thương, mọi người đến với hội là sự tự nguyện và tán đồng điều lệ của Hội đề ra chỉ trên tinh thần ái hữu. Bên cạnh, trên tư cách người công dân hội thúc đẩy tiến trình dân chủ hoa đất nước, nói lên tiếng nói lương tâm đòi hỏi về những quyền cơ bản của con người được minh định trong Hiến pháp và những điều ước quốc tế mà VN đã ký kết tham gia.Ngoài Ai Hữu mọi người đều có quyền tự do tư tưởng tham gia bất cứ đảng phải nào, Hội luôn tôn trọng và không có quyền ngăn cản. Hội thành lập căn cứ vào Điều 69 của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 20 trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền( 10-12-1948) và điều 22 trong Công ước quốc tế về quyền Dân sự và Chính trị. Ngoài ra, Hội không chịu trách nhiệm cũng như không phân công chỉ đạo cho bất cứ cá nhân nào tham gia các tổ chức chính trị, mọi người sẽ chịu trách nhiệm những việc mình làm, nếu xãy ra với pháp luật Việt Nam.

Khi làm việc trung uý Nguyễn Việt Bằng có hỏi tôi về mối liên hệ của Hội Ái Hữu tôi đã từ chối trả lời và nói rằng vào ngày 08-03-2997 theo đề nghị của các tổ chức quốc tế Hội ái hữu chúng tôi đã gởi đơn đến Bộ tư pháp, Thủ tướng chính phủ và Chủ tịch quốc hội đề xin hợp thức hoá công khai, tôi được bà Nguyễn Thị Mai văn thư riêng của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kí nhận đơn thời gian đến nay gần 1 năm tôi đang chờ đợi sự phúc đáp. Tôi sẵn sàng làm việc nếu Bộ tư pháp cử người trao đổi với Hội ái hữu để tường trình Thủ tướng ra quyết định cho phép Hội hoạt động hay không? kế đó, Trung uý Nguyễn Việt Bằng hỏi tiếp về Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất, tôi cũng đã từ chối vì tôi cho rằng chính quyền không được can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo, ngoài ra, tôi đề nghị với trung uý Bằng trước khi tiến hành điêu tra yêu cầu phải trao cho tôi các quyết định khám nhà, khám thân thể và tạm giữ thì tôi mới làm, cũng như nên sớm trả lại tiền bạc, tài sản và giấy tuỳ thân

Mấy hôm nay tôi đã từ chối giấy triệu tập lần 1 và lần 2 của trung tá Nguyễn Đức Minh và đặt thẳng yêu cầu nói trên, trong lúc báo Bạc Liêu đang liên tục vu cáo và bôi nhọ, xúc phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người xuất gia và trên tư cách là Hội trưởng Hội ái hữu TNCT & TGVN. Trước mắt còn nhiều vấn nạn tôi khắc nguyện khiết kỉ tâm hồn, khiết thành với Hội ái hữu và nổ lực thành thiện.

Hôm nay kính đến quý thành viên trong Hội đồng cố vấn và Hội đồng điều hành Hội ái hữu TNCT &TGVN trong ngoài nước để thẩm tường.

Trân trọng !

Hội trưởng Hội AHTNCT&TGVN

(PTDCVN)
——————————————————————————
Ý rút tỉa :
Bản chất của cộng sản là, bất kỳ ở đâu trên thế giới:
BƯNG BÍT, BỊT MIỆNG; TUYÊN TRUYỀN GIAN TRÁ, BẠO LỰC KHỦNG BỐ !
“Ném đá giấu tay, ngậm máu phun người”, đạo đức giả, tráo trở, ngụy tạo, vu cáo, …
Mọi chuyện đều có thể xảy ra dưới chế độ cs độc tài toàn trị, “lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện”, bất chấp luật pháp, đạo lý, lẽ phải, công lý, công bằng, sự thật. 

Cứu cánh của cs là gì ?
Quyền lực độc tôn và đặc quyền đặc lợi, dù phải dựa vào ngoại bang, bán đứng quyền lợi quốc gia dân tộc, sẵn sàng đàn áp, cô lập, tiêu diệt mọi tiếng nói công tâm, lẽ phải, yêu nước; tướt đoạt mọi dân quyền và nhân quyền căn bản ! 

February 15, 2008

video về Hồ Chí Minh

Tuyên truyền XÁM :
tìm hiểu nhiều chiều, đối chiếu lịch sử, phán đoán khách quan là việc của bạn, so cho phù hợp với lương tâm lương tri !

HCM, csvn đã nói gì, đã làm gì, đã mang lại tự do, hạnh phúc gì cho nhân dân qua một thời gian nhất định ???
Biên giới lãnh thổ hải phận của VN ở đâu và đã bị mất gì ???
Quyền tự do tư tưởng, ngôn luận, đi lại, báo chí tư nhân có được tôn trọng và bảo vệ không ?
Quyền dân tộc tự quyết của dân VN có được tôn trọng không ??
Các cán bộ cs sống ra sao ??  Tiền, vật chất từ đâu ra ???

– 02 ho chi minh, bui tin 1 Viet Nam

http://youtube.com/watch?v=mbQ-aXWr24Y

– 03 – hcm buitin 2 va vu thu hien 1 ** Viet Nam

– 05 – ho chi minh vu thu hien 3 ** Viet Nam

– 06 – Ho chi minh Vu Thu Hien 4 Viet Nam

– 01 – Ho Chi Minh Phan boi Chau Phan Chau Trinh ** Viet Nam

February 11, 2008

Tha thứ, được ! Lãng quên, không bao giờ !!!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 43 (15-01-2008)

            “Ta sẵn sàng tha thứ cho các người! Nhưng các người phải quỳ xuống nhận lỗi!” Đó là lời của một cư dân đảo Sicile, nước Ý, từng nói trong nước mắt với bọn Mafia vừa giết thân nhân của mình. Đây cũng là lời mà hàng vạn thân nhân các oan hồn Tết Mậu Thân cũng như bao người dân Việt muốn nói với Cộng sản trong những ngày kỷ niệm 40 năm cuộc thảm sát rùng rợn nhất lịch sử dân tộc mà thủ phạm là chính đảng CS. Nhưng tập đoàn Mafia đỏ này đã và đang làm gì nhân kỷ niệm biến cố ấy?

            Đó là trên các kênh truyền hình VTV phủ trùm cả nước và có lẽ ra cả hải ngoại, từ mấy tháng nay ra rả một giọng điệu ngợi ca cái gọi là cuộc tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân”. Một cuộc “tổng tấn công và nổi dậy”, mà theo lời bí thư thành Hồ Lê Thanh Hải nói tại buổi mít-tinh ở dinh Thống Nhất sáng ngày 1 tháng 2 vừa qua, “đã tạo một cú ‘choáng đột ngột’ với địch ở miền Nam…, là điểm son chói lọi của lịch sử dân tộc, còn theo lời Trung tướng CS Nguyễn Ðình Ước trên báo Nhân Dân, thì đã đi vào lịch sử như là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh cách mạng Việt Nam, thể hiện một đỉnh cao ý chí và trí tuệ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh nhỏ thắng lớn…”

            Đúng là một “sáng tạo độc đáo” với nhiều nét mà chỉ có CS mới có nổi!!! Trước tiên, đó là vi phạm thỏa ước hưu chiến mà CS đã cam kết cách long trọng, khiến phía Việt Nam Cộng Hòa đã tin lời mà cho một nửa số quân nhân được về ăn tết với gia đình, nên bước đầu đã phần nào bị động. Người ta nhớ lại rằng trong hai trận Thế chiến, những cuộc hưu chiến ngày Giáng sinh đều được đôi bên tuân thủ một cách nghiêm túc, vì họ còn biết trọng danh dự của mình. Thứ hai, đó là chà đạp những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giữa cảnh sum họp êm ấm, CS đã gây cảnh tan nát chia lìa. Giữa bầu khí yêu thương hòa giải, CS đã đem tới hận thù bạo lực. “Ai đã cướp con tôi? Ai đã giết con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình?” là câu hát còn vang vọng mãi trong lòng dân miền Nam. Máu đỏ đã pha hòa với rượu tết. Thịt người đã trộn lẫn với bánh tét bánh chưng. Vỏ đạn đã nằm vương vãi lăn lóc cạnh những đồ thờ tự. Thứ ba, đó là giết chết thường dân, bất kể tu sĩ linh mục, y tá bác sĩ, viên chức cán bộ, văn nhân nghệ sĩ, thầy giáo học trò, thậm chí cả những kẻ buôn thúng bán bưng, lao công độ nhật… Trong mười mấy ngàn nạn nhân vô tội bị chết thảm tại Huế, không thiếu một hạng người nào cả. Thứ tư, đó là đưa ra chiêu bài “trình diện học tập cho thông suốt đường lối để tiếp tục phục vụ chính quyền cách mạng” hầu lừa người ta đến chỗ chết. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành, nguyên Phó Trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt tại Thừa Thiên khi ấy nhớ lại: “Sau khi lập chính quyền thì Việt cộng bắt đầu thảm sát. Đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố Huế ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với những người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ 3 thì họ yêu cầu tất cả những kẻ đã trình diện lần l và 2 ra trình diện lại. Đây là lần quyết định, và cuộc thảm sát xảy ra!” (đài RFA phỏng vấn). Thứ năm, đó là dụ khị nạn nhân cơm đùm gạo bới hay dụ khị thân nhân tiếp tế lương thực trong nhiều ngày để rồi cướp lấy của họ. “Các ‘sứ giả’ về thông báo với bà con là ai có thân nhân ‘đi học tập’ hãy bới lương thực lên chùa Từ Đàm. Vậy là vài hôm sau, người ta ùn ùn gánh gồng lên đó gạo cơm, cá thịt, muối mắm, bánh trái ê hề (Tết mà!)… Họ chẳng thấy thân nhân đâu cả mà chỉ gặp mấy tên cán bộ VC bảo họ hãy an tâm trở về nhưng để đồ ăn lại. Nhờ mưu mô thâm độc này mà VC tạo được một kho lương thực khổng lồ để ăn mà đi giết người tiếp!!” (Trích “Cuộc thảm sát Khe Đá Mài”). Thứ sáu, đó là giết chết các nạn nhân bằng cách đập vỡ sọ bằng cuốc và báng súng, bằng cách trói từng người hay từng chùm một rồi chôn sống họ. Được hỏi tại sao không bắn họ, cho họ viên đạn còn dễ hơn dùng vật cứng đập đầu họ và đẩy xuống hố, một trung tá tù binh VC tên Hoàng Kim Loan trả lời: “Đạn chúng tôi để bắn Mỹ Ngụy, đâu để bắn những đám người như thế!” Ông Võ Văn Bằng, Trưởng ban Truy tìm và Cải táng Nạn nhân CS Tết Mậu Thân, hồi tưởng: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn! Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do đạn bắn, vỡ là do cuốc đập” (đài RFA pv các chứng nhân). Thứ bảy, đó là tàn phá trực tiếp hay gián tiếp các kho tàng văn hóa của dân tộc bằng cách tiến chiếm các nơi này để làm công sự phòng thủ hay hang ổ kháng cự, cụ thể là khu vực Đại nội và Cấm thành tại Huế. Y như VC từng đặt các giàn cao xạ bên cạnh các ngôi thánh đường ở miền Bắc trong cuộc chiến chống phi cơ oanh tạc của Hoa Kỳ trước đây và xóa bỏ di tích Hoàng thành Thăng long hiện thời.

            “Điểm son chói lọi” mà Lê Thanh Hải đề cập chính là biển máu đỏ khổng lồ của mấy ngàn nạn nhân vô tội xét riêng ở Huế sau 27 ngày gọi là “giải phóng Thừa Thiên”: “Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, khoảng 5,300 nạn nhân đã bị chôn sống tại tỉnh nhà” (Nguyễn Phúc Liên Thành). “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. Có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu” (Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên).

            · Người ta tự hỏi tại sao CS lại dã man tàn bạo đến thế trong chiến cuộc Mậu Thân và vẫn cố tình khỏa lấp, lì lợm chối tội đến vậy trong những ngày xuân Mậu Tý? Điều đó phát xuất trước hết từ quan điểm triết lý duy vật mà CS thấm nhuần: con người chỉ là vật chất, không có hồn thiêng, chẳng có nhân phẩm, không có thưởng phạt đời sau, chẳng có đấng linh thiêng xét định. Thành ra cứ thản nhiên giết chết nếu cần. Ý thức ghê gớm này chẳng những có nơi những chiến binh CS cầm súng mà còn nơi những văn sĩ CS cầm bút nữa. Nhiều tên đồ tể ở Huế trong những ngày xuân khủng khiếp ấy là giáo sư, văn sĩ, học giả, sinh viên…

            Tiếp đến là quan điểm đạo đức cách mạng: cứu cánh biện minh cho phương tiện và bạo lực cách mạng là điều cần thiết. Hồ Chí Minh đã chẳng giết vợ hờ lẫn đồng chí và Trường Chinh đã chẳng đấu tố cả cha lẫn mẹ đó sao? “Năm 1972, tôi bắt được một trung tá VC tên Hoàng Kim Loan, hoạt động bí mật tại Huế 20 năm trời. Tôi hỏi: tại sao các anh thảm sát đồng bào Huế man rợ đến như vậy? Loan nói đấy là chủ trương bạo lực cách mạng do cấp trên chỉ thị. Thứ hai, khi trên đường rút lui, do không thể đem theo tù nhân, nên phải giết. Người CS chúng tôi có chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót” (đài RFA phỏng vấn các chứng nhân).

            Cuối cùng là quan điểm chính trị của CS: toàn thắng của đảng là đòi hỏi tuyệt đối và vinh quang của đảng là giá trị tối thượng. Thành thử CS đã chẳng ngại ngần gì mà không xử tử hàng loạt trong biến cố năm 1968 ấy. Theo tác giả Douglas Pike, “Có 3 giai đoạn đưa đến những vụ xử tử. Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án bất hợp pháp công cộng kéo dài khoảng 5-10 phút do giới chức trong quân Bắc việt hay VC dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án “có tội với nhân dân”. Giai đoạn nhì, khi họ cho rằng họ sẽ giữ được Huế lâu dài, quân BV-VC bắt đầu tiến hành công tác giáo dục tư tưởng cho quần chúng. Những ai bị tình nghi có thái độ chống cách mạng từ từ bị truy lùng trong giai đoạn này. Tín đồ Công giáo, các nhà trí thức, thương gia, và đám người mang tội làm “tay sai Đế quốc” bị chiếu cố để “tạo dựng xã hội mới”. Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân BV-VC thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng. Bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác”. Ngoài ra, nỗi căm thù vì thấy nhân dân miền Nam không hưởng ứng, không ủng hộ, mà lại trốn chạy, nên CS lại càng điên tiết để càng cuồng sát hơn!!! Sau đó là màn vu khống đổ vạ của Hà Nội. Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên truyền thanh VNCH trước 1975 nhớ lại: “Một bản tin của đài Giải phóng cho rằng chính cảnh sát và quân đội VNCH khi thua trận rút lui đã làm điều đó. Chuyện đổ vạ là điều bình thường của CS từ trước đến giờ. Nhân chứng vẫn còn sống đây thôi, cả trong lẫn ngoài nước. Họ không thể xoá những điều ấy được”. Trang mạng “nhandanvietnam.org” của CS từ cả năm nay cũng tung ra chiến dịch khỏa lấp và vu khống -để nhân dân lãng quên- với những bài viết như “Chứng nhân: Mậu Thân. Hố chôn tập thể. Hậu Mậu Thân Huế 68” của Trần Thông; “Chuyện hoang đường vụ Thảm sát Ở Huế 68” của Noam Chomsky; “Bình luận một thông tin lịch sử…” của Nguyễn Đắc Xuân….

            Biến cố Tết Mậu Thân đã nối dài tội ác của CSVN, vốn khởi đầu từ việc giết các đảng phái quốc gia từng cùng chống Pháp với mình qua cuộc “trừng trị Việt gian”, giết các nông dân từng nuôi sống mình qua cuộc “Cải cách ruộng đất”, giết (tinh thần) các văn nhân nghệ sĩ từng ủng hộ Cách mạng tháng 8 qua vụ “Nhân văn Giai phẩm”, giết các quân nhân binh sĩ từng chiến đấu cho mình qua vụ “Xét lại chống đảng”… Sau cuộc thảm sát Mậu Thân lại đến Mùa hè đỏ lửa với “Đại lộ kinh hoàng” năm 1972, rồi cái gọi là “Mùa xuân đại thắng giải phóng miền Nam” năm 1975 với bao đau thương và tan tác, đày đọa và trả thù, xua đuổi và tống xuất, đổ vỡ và kiệt quệ… Đến hôm nay, tội ác vẫn chồng chất tội ác, với việc cướp đất buôn dân rồi bán đất dâng biển…

            Dân tộc VN vốn đầy lòng vị tha, nhân ái, sẵn sàng tha thứ cho người CS, chứ không chủ trương trả thù tàn bạo như những kẻ máu đỏ da vàng đang giương sao vàng bảng đỏ, với điều kiện là họ biết thành tâm sám hối. Nhưng lãng quên tội ác của họ thì không bao giờ. Như câu tục ngữ tiếng Anh: Forgive yes! Forget no !

            BAN BIÊN TẬP

January 29, 2008

Đạo đức Trần Dân Tiên

Phiếm Luận

CaubayÔng Hồ Chí Minh đối với người Viêt Nam ngày nay gần như đã trở thành cục nợ.

Ở trong nước, người dân phải “nuốt” ông Hồ như dân kinh tế mới nuốt khoai mì. Ngán lắm mà phải nuốt vì đó là thứ duy nhất người ta khen bổ, khuyến khích cho ăn, có sẵn, ê hề, rẻ mạt! Ăn thì muốn ói, không ăn thì chết đói. Có lẽ từ đứa trẻ đến cụ già, ai cũng ngày đêm mong mỏi có một ngày đẹp trời nói lời đoạn tuyệt với nó.

Ở ngoài nước thì ông Hồ như cái mụt cóc mọc chỗ kín. Hằng ngày bận công ăn việc làm thì nó chẳng gây ngứa ngáy phiền hà gì cả, quên phứt đi; nhưng lâu lâu rảnh rỗi, có việc thì cũng thấy mắc cỡ, bực bội vì sự có mặt của “nó”.

Khái quát về đạo đức ông Hồ, chỉ cần hai chữ: Xạo và Ác!
Nguồn: flamencoflute.com


Vì quá chán ngán như vậy nên nói về ông Hồ là chuyện bất đắc dĩ. Thế mà vẫn phải nói vì cây muốn lặng mà gió chẳng đừng. Gió ở đây là cái đảng Cộng sản Việt Nam đương hồi bí rị. Câu thần chú “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm” thì dù có dày mặt cách mấy cũng không thốt ra được nữa nên họ cứ lôi ông Hồ ra để hè nhau…nghiên cứu. Vô hình chung họ đã biến ông Hồ thành cái đích cho thiên hạ “trút bầu tâm sự”. Đảng Cộng sản thì dùng ông ta như thầy bói dùng mu rùa, chỉ để thêm phần linh thiêng, dù biết tỏng là vật vô tri. Dân đen thì kiêng kỵ như kiêng cái chiếu rách, niêu bể, bình vôi liệng ở bụi tre hay gốc đa đầu làng. Tuy biết những thứ ấy là đồ phế thải, vô dụng, dơ dáy…mà ai cũng ngán, không dám vô phép xúc phạm.

Trong nước ngày nay người ta đang ra sức (bắt dân) học tập “tư tuởng” Hồ Chí Minh. Thật là nghịch lý và phí phạm khi bắt buộc cả nước học tập tư tưởng của kẻ đã tự nhận là không có tư tưởng gì sất! Tư tưởng Hồ chí Minh là cái gì mà đã những kẻ tự xưng là thành phần ưu tú của dân tộc học mấy mươi năm ròng cũng không thông, mà có vẻ càng ngày càng lụn bại? Ông Hồ có gì đáng để học và nội dung những buổi học tập tư tưởng đạo đức Hồ chí Minh là gì?

Thắc mắc này một phần được giải tỏa qua bài trả lời phỏng vấn của ông bộ trưởng Lê Doãn Hợp trên báo “Người Đại biểu nhân dân” ngày 3 tháng 1 năm 2008.

Vì cuộc phỏng vấn này là công tác của một anh viết mướn và đồng chí Bộ trưởng nên nhàm lắm, cứ như đào kép diễn tuồng cũ rích, dỡ ẹt. Caubay vốn “chuộng sự thật, ghét sự giả dối”, nên để cho khách quan, đành theo gương nhà báo Trần dân Tiên, nhờ Kim Thánh Thất tiên sinh bình luận. Quí vị nào có cao kiến xin vui lòng đóng góp vì đó cũng là chủ trương thông tin đa chiều, lắng nghe ý dân của Đảng!
Sau đây là sơ lược bài phỏng vấn với lời bàn “Thánh Thất ngoại thư” in chữ nghiêng.


Cuộc đời Bác là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo (1)Phóng viên Minh Tâm báo Người Đại biểu Nhân dân (PV): Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng. Trên cương vị là Bộ trưởng, ông đã làm gì để hưởng ứng cuộc vận động trên?

Ông Lê Doãn Hợp (LDH): – Cuộc vận động, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng, cần thiết và cấp bách nhất của Đảng ta hiện nay. Đây là khát vọng của nhân dân là thách thức của thời đại và trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền…

Lời bàn của Kim Thánh Thất (LB): Nhiệm vụ quan trong nhất thì nghe cũng có lý, nhưng đối với đảng Cộng sản thôi. Đối với người cộng sản thì không có gì quan trọng hơn là bảo vệ đảng, kể cả mất nước. Với ông Hồ thì nhân dân chỉ có một khát vọng là đêm chôn. Cho việc học vài câu nói của ông Hồ (mượn) là thách thức của thời đại là cách nói vẹt, lộng ngôn, vô ý nghĩa. Nên nhớ trách nhiệm cao nhất của một đảng cầm quyền là bảo vệ đất nước chứ không phải là đi học Mác, Lê, Mao, Hồ hay bất cứ ai.

PV: Thưa Bộ trưởng, mục tiêu sâu xa nhất của đợt vận động này là gì?

LDH: Cả đời Bác chăm lo cho Đảng, cho nước, cho dân. Suốt cuộc đời của Bác luôn quan tâm đạo đức. Bác đã viết 55 tác phẩm liên quan đến đạo đức cách mạng. Những tác phẩm này đã để lại những dấu ấn rất quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước….

LB: Nói cả đời Bác lo cho..chính Bác thì chắc hơn, lo cho Đảng thì tàm tạm, vì khi cần thiết thì đồng chí Bbác cũng ..mần luôn. Bảo Bác lo cho nước, cho dân thì đúng là láo như vẹm. Thử coi từ ngày có Bác, cái đất nước này, đám nhân dân này khốn nạn biết là bao! Cuộc đời và tác phẩm của thì chỉ có chính Bác và Đảng khen hay. Xin khỏi nhắc, nhàm lắm, chỉ nói sơ qua là ca tụng đạo đức của Bác mà lại nhắc đến tác phẩm của Bác thì cũng như chửi cha Bác vậy! Đạo dức và tác phẩm của Bác thì ông Lê doãn Hợp chắc chắn không rành bằng nhà báo Trần dân Tiên.

PV: Tại sao phải trong thời điểm hiện nay chứ không phải trước đây, hay sau nữa mới phát động cuộc vận động này, thưa Bộ trưởng?

LDH: “Nguồn gốc của suy thoái đạo đức hiện nay thì Đảng ta đã “bắt đúng bệnh”, như Bác nói đó là chủ nghĩa cá nhân. Khi chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy, thì mọi biến cố bất lợi cho Đảng sẽ bắt đầu. Với ý nghĩa đó, Bộ Chính trị, Ban bí thư, quyết định mở cuộc vận động lớn, “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…

LB: Xưa nay thì Đảng vẫn tự xưng là đỉnh cao trí tuệ, cực kỳ sáng suốt. Nay ông Lê doãn Hợp can đảm lắm mới dám chửi Đảng công khai khi cho rằng Đảng mắc bệnh. Thực ra thì Đảng có nhiều bệnh lắm, như bệnh độc tài, bệnh bán nước, bệnh giết người, bệnh nói láo, bệnh cơ hội, bệnh ăn cắp, bệnh không biết nhục… chứ đâu phải chỉ bệnh cá nhân. Có điều các ông coi bộ rất lẩm cẩm khi học tập một người cả đời sùng bái cá nhân như ông Hồ để chữa bệnh chủ nghĩa cá nhân. Ai đời đi chữa bịnh bằng cách hấp thu vi trùng bịnh? Chủng ngừa chăng?

PV: Thưa Bộ trưởng, nhiều người lo ngại rằng, các cuộc vận động thường rầm rộ lúc đầu, nhưng thời gian sau bị lắng lại, thậm chí dần rơi vào quên lãng. Cuộc vận động có thành công như Đảng ta mong đợi hay không?

LDH: Khi tiến hành cuộc vận động này, nhiều người đã hỏi tôi rằng, liệu Đảng ta có thực hiện được cuộc vận động này không? Tôi trả lời với họ rằng, Đảng quyết dân tin thì không có việc gì không làm được. Vì trước hết, Đảng ta không bao che tiêu cực. Thứ hai là trong thực tiễn chúng ta đang làm và có những thành công bước đầu. Thứ ba là chúng ta có tấm gương của Bác để noi theo. Thứ tư là dân ta rất oán ghét tiêu cực. Thứ năm, cán bộ ta hầu hết trọng và tin dân…

LB: Ông nói có người hỏi “Liệu đảng có thực hiện cuộc vận động này không” tức là có kẻ không tin Đảng. Tất nhiên ngày nay chẳng có đứa ngu nào nào còn tin Đảng. Dù sao điều ông thố lộ cũng chứng tỏ ông chửi Đảng rất khéo. Năm điều ông kể trên nghe huề tiền lắm! Đảng ông không bao che tiêu cực của kẻ ngoài đảng hay chống đảng thôi, còn đảng viên ăn cắp là chuyện ..tồn lại, chuyện trên mức tình cảm! “Thành công bước đầu” người dân nghe từ khuya rồi, nghe mãi và chưa bao giờ nghe đuợc bước cuối. Không phải đợi đến bây giờ mà các ông đã học tập theo ông Hồ từ lâu, vì vậy mà cán bộ đảng viên thay vì thành bác của dân đã trở thành ông nội của dân cả. Nói cán bộ cộng sản trọng và tin dân thì đúng là láo hơn cả…vẹm.

PV: Giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh được truyền đạt đến toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc vận động này là gì, thưa Bộ trưởng?

LDH: Đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ là trên 4 ý sau: Thứ nhất là trung thành với đất nước, tận tuỵ với nhân dân. Thứ hai là cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Thứ ba là lo trước thiên hạ và hưởng sau thiên hạ. Thứ tư là luôn luôn thống nhất giữa lời nói và việc làm.

LB: Đạo đức Hồ chí Minh, nếu có, chỉ là trung thành với Quốc tế Công sản, cụ thể là với cộng sản Tàu. Công hàm nhượng đảo Hoàng Sa cho Tàu năm 1958 là bằng chứng rất rõ. Cán bộ đảng viên được học tính cần kiệm, chí công vô tư nào mà trở thành tham nhũng nhất thế giới? Thiên hạ nào được hưởng trước đảng viên? Ông quên thành phần ưu tiên, cốt cán trong xã hội cộng sản rồi ư? Còn việc thống nhất giữa lời nói và việc làm của cộng sản thì đứa con nít bây giờ cũng thấy. Hãy gọi hồn ông Nguyễn văn Thiệu dậy mà hỏi!

PV: Nếu được tổng kết một cách ngắn gọn nhất về đợt vận động này, Bộ trưởng sẽ nói điều gì?
LDH: …Giá trị cao nhất của đạo đức Hồ Chí Minh, xin được khái quát ít nhất là 10 chữ: Tận tuỵ, Gương mẫu, Sáng tạo, Kỷ cương, Tình nghĩa …

LB: Nên sửa lại cho đúng như vầy: Hồ chí Minh tận tụy với Nga Tàu; theo gương mẫu của Stalin, của Mao. Sáng tạo cách mỵ dân, giết người. Kỷ cương biến cả nước thành trại tù. Tình nghĩa như đối với bà Nguyễn thị Năm trong cái ơn cưu mang, với bà Nông thị Xuân, trong tình chăn gối, với ông Lê hồng Phong trong tình đồng chí, với cụ Phan bội Châu trong nghĩa đồng bào. Nếu cần khái quát về đạo đức ông Hồ, chỉ cần hai chữ: Xạo và Ác!

PV: Xin cảm ơn Bộ trưởng!

LB: Tội tuyên truyền tư tưởng độc hại, phản dân hại nước thì chưa bỏ tù là may, cám ơn gì!


Hồ chí Minh tận tụy với Nga Tàu; theo gương mẫu của Stalin, của Mao. Sáng tạo cách mỵ dân, giết người. Kỷ cương biến cả nước thành trại tù.
Nguồn: nguoidaibieu.com.vn


Như đã nói, phản biện lại ông Lê Doãn Hợp hay bất cứ cán bộ tuyên truyền nào của cộng sản cũng nhàm như cãi lý với cái máy hát. Tuy vậy vì tính độc hại của nó, không nói không được. “Tư tưởng, đạo đức” của ông Hồ chí Minh đã được nói đến quá nhiều rồi. Sự thật và những nhận định về ông ta, dù ở phía nào nghe cũng đà quen tai. Tuy vậy, có một nhận xét rất thú vị về “bác” từ một em học sinh trong nước mà Caubay cho là rất chính xác, xin chia sẻ (2) cùng bạn đọc sau đây:

“…Cũng trong đề khối C, khi phân tích nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn “Vi hành” của Nguyễn Ái Quốc, do không hiểu rõ tác phẩm nên trong lúc bí bách, một nữ sinh đã viết: “Bác bôn ba khắp năm châu bốn biển mấy chục năm trời, làm đủ thứ nghề và ở nhiều đất nước nên rất giỏi hóa trang. Mà Bác đã hóa trang thì không ai nhận ra được thế nên Bác đã khiến mọi người tưởng rằng mình là vua Khải Định”, nữ sinh này viết.

Vâng, “bác” mà hóa trang, giả dạng thì không ai nhận ra được, sá gì những kẻ như ông Lê Doãn Hợp!San Diego, 15/01/2008

© DCVOnline


(1) Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp: Kết tinh tư tưởng và đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yêu nước, thương dân, báo Người Đại biểu Nhân dân, Minh Đức thực hiện, 03/01/2008.
(2) Những bài văn hài hước mùa tuyển sinh, VNExpress, Thứ bảy, 21/7/2007.
http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4561

Create a free website or blog at WordPress.com.