Diễn đàn Paltalk TiengNoi TuDo Cua NguoiDan VietNam

July 19, 2008

Phê duyệt hành lang kinh tế Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh

Thứ ba, 15/07/2008

Hành lang kinh tế này nằm trong vành đai kinh tế 2 nước Việt Trung- là đầu mối đi châu Âu và Asean.

Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển Hành lang kinh tế Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh đến năm 2020.

Quy hoạch dựa trên quan điểm hợp tác phát triển “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt Nam-Trung Quốc và tính tới phát triển toàn tuyến đi châu Âu và các nước ASEAN.

Mục tiêu của quy hoạch là đưa mức tăng trưởng GDP toàn tuyến lên gấp 1,2-1,4 lần mức trung bình cả nước. Nâng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua hành lang kinh tế này đạt bình quân hơn 20%/ năm, đạt khoảng 2 tỷ USD vào năm 2010; 4,5-5 tỷ USD vào năm 2015 và trên 10 tỷ USD vào năm 2020.

Hành lang kinh tế sẽ có 3 cặp cửa khẩu quốc tế, 4 cặp cửa khẩu chính và 13 cặp chợ biên giới; xây dựng Khu hợp tác kinh tế biên giới Đồng Đăng-Bằng Tường và một số trung tâm thương mại, du lịch trên tuyến hành lang và khu kho vận tại Bắc Giang. Sau năm 2015, hợp tác hành lang kinh tế sẽ được triển khai toàn diện.

Mục tiêu xây dựng Hà Nội thành TP quốc tế, là trung tâm kinh tế lớn của tuyến Hành lang kinh tế Nam Ninh-Lạng Sơn-Hà Nội-Hải Phòng. Tuyến cao tốc Hà Nội-Hữu Nghị Quan (Lạng Sơn) 6 làn xe sẽ được xây dựng với tổng vốn đầu tư dự kiến 1,4 tỷ USD.

tuyến cao tốc Hà Nội- Hải Phòng, kéo dài đến cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) gồm 6 làn xe, dự kiến khởi công năm 2008, hoàn thành vào năm 2010 vơi tổng vốn 19.000 tỷ đồng.

Đồng thời Việt Nam sẽ hợp tác với Trung Quốc trong việc xây dựng tuyến đường sắt liên vận quốc tế có lợi cho hành lang kinh tế. Cảng Phả Lại sẽ được đầu tư xây dựng thành cảng đầu mối quan trọng trong tuyến đường thủy của hành lang.

Hai nước cũng sẽ thực hiện thí điểm mô hình thông quan “kiểm tra một lần” tại cửa khẩu Hữu Nghị.

Theo TTXVN
http://tintuc.timnhanh.com/kinh_te/20080715/35A7DCF2/
********************************************************************************

**********************************************
ý kiến:
– Chính sách ” tằm ăn dâu ” thôn tính VN của TQ là RÕ RÀNG, không thay đổi !!!
– Thời chiến tranh, TQ dùng chiêu bài “giúp đỡ, làm đường xe lửa, chuyển súng đạn cho dễ” để di dân lấn đất vùng biên giới phía bắc, Hoàng Trường sa ! Hiện nay, VN ĐÃ mất HS TS, và đất đai phía bắc cho TC.
– Thời “hòa bình”, TQ dùng chiêu bài ” phát triển kinh tế” !!
– Nanning vẫn có thể dùng làm nơi chuyển hàng sang Asean và EU, tại sao lại phải lấn sang VN ???
– CSVN là người TQ, TQ cài vào BCT !!? Csvn thực thi chính sách bành trướng của TQ !!?

May 3, 2008

VIỆT NAM SAU HƠN BA THẬP NIÊN DƯỚI CHẾ ĐỘ CSVN

Date: 2007-04-14 10:20

Vào đầu tháng 4 năm 2005, những đảng viên lão thành trong ĐCSVN đã từng nắm giữ những chức vụ cao trong đảng và trong chính quyền, khoảng 40 người, gồm có Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Chu Huy Mân, Mai Chí Thọ, v.v., họp với Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh, Ủy Viên Tổ Chức Trần Đình Hoàn, và Bí Thư Ban Thường Trực Phan Diễn về “những thành quả” sau 30 năm Sài Gòn thất thủ cũng như bàn đến tương lai của Việt Nam. Trong cuộc họp này, một câu hỏi được nêu ra và mọi người đã lặng thinh không dám trả lời: “Nếu chủ nghĩa Mác và Xã Hội cao đẹp và hiệu quả như vậy thì tại sao chỉ có 4 nước (Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn, và Cuba) theo mà thôi? Cả thế giới đâu rồi và còn khoảng 200 quốc gia nữa sao họ không theo chủ nghĩa này? Tại sao Đông Âu và Liên Xô lại bỏ chủ thuyết này?” Những người Cộng Sản không còn nắm quyền nữa đã có những xung đột gay gắt với những người còn đang cầm quyền. Tuy nhiên, tất cả những người hiện diện trong phiên họp này đều phải công nhận trước năm 1975, Sài Gòn phồn vinh hơn Thái Lan rất nhiều, nhưng sau 30 năm dưới sự cai trị của Cộng Sản, Sài Gòn bây giờ tụt hậu thua xa Thái Lan. Sau đó, vào ngày 14 tháng năm 2005, trả lời phỏng vấn của báo Quốc Tế, Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng của Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, thú nhận rằng trong 30 năm qua, ĐCSVN đã say ngủ trên chiến thắng làm cho đất nước tụt hậu thua những quốc gia khác. Sau này vào cuối năm 2006, trên tờ Việt Weekly News, ông Võ Văn Kiệt kêu gọi người Quốc Gia và Cộng Sản hãy quên đi quá khứ, hòa hợp hòa giải nhưng ông vẫn khăng khăng giữ vững lập trường “hòa hợp hòa giải dưới sự chỉ đạo của ĐCSVN” làm cho nhiều người rất bất bình cho rằng ông Võ Văn Kiệt không có thành tâm mong tìm một giải đáp cho vấn nạn tụt hậu của Việt Nam.

Tại sao những người lãnh đạo ĐCSVN, sau 30 năm cầm quyền, lại có một ánh nhìn tiêu cực như vậy? Lý do cho ánh nhìn tiêu cực này thật là rõ ràng: Chủ nghĩa Mác và Xã Hội không những là một thiên đàng ảo tưởng mà còn là một chủ thuyết chống lại con người; vì thế, trong lúc hành xử, người thắng bạc đãi kẻ thua một cách dã man làm cho guồng máy xã hội không còn hiệu năng dẫn đưa đến sự tụt hậu của cả quốc gia.

Như thế, trong hơn 30 năm qua, ĐCSVN đã làm những gì đối với đất nước?
Sau khi cưỡng chiếm Nam Việt Nam năm 1975, để đạt tới mục tiêu trở thành thực thể duy nhất nắm quyền cai trị đất nước, ĐCSVN đã áp đặt và thi hành những chính sách tàn bạo biến cả đất nước thành một trại tù vĩ đại qua hai chính sách Học Tập Cải Tạo và Vùng Kinh Tế Mới.

Cái mà được gọi là Trại Cải Tạo thì giống y hệt trại tù khổ sai gulags của Liên Xô và laogai của Trung Quốc. Đây chính là địa ngục ở trần gian như lời miêu tả những kinh nghiệm đau thương của ông Thế Sỹ Trần Văn Hùng:

Đọc lệnh xong, trực trại dẫn tôi qua nhà 11 biệt giam. Cửa phòng 4 biệt giam vừa hé mở, sức nóng hòa lẫn với chướng khí bị dồn nén trong căn hầm nhỏ hẹp lùa ra như xua đuổi giám thị và trực trại lùi xa hai mét.

Nhìn thẳng vào hầm biệt giam, thấy chẳng khác gì một chiếc áo quan được đúc bằng xi-măng, chiều dài 2 mét, chiều ngang 1 mét 2, chiều cao 1 mét 9. Từ nóc hầm rọi xuống một bóng điện tròn. Bốn bề xây kín không một lỗ thông hơi. Cánh cửa có lỗ khoan tròn nhỏ đủ đút một ngón trỏ xuyên qua để cán bộ tuần tra nhíu mắt vào quan sát. Ở giữa ghép ba tấm ván gắn liền với chiếc cùm gỗ, sát chân cùm một sô chứa phân và nước tiểu. Ba tù nhân ngồi trần trụi ép vào nhau mồ hôi nhễ nhãi. Trực trại hạ lệnh:

“Tụi bay ngồi ép lại, cho thêm một người nữa vào.”
Một anh bạn kêu ca:
“Hầm bề ngang chỉ được một mét hai, ba đứa tôi ngồi không lọt, nay thêm một người nữa, bọn tui làm sao nằm được cán bộ?”
Lời trực trại:
“Không còn phòng trống, ngồi so le, đứa trước đứa sau.”
Tôi bỏ chân vào cùm, viên trực trại khóa lại, khép chặt cửa đi ra..

Chúng tôi mới nhỏ to được vài câu chuyện, phía hông trái tôi sáp sát vào thành hầm nhói lên cùng lúc như hàng chục mũi kim ghim vào da thịt, tôi giật mình theo phản ứng tự nhiên, đưa mắt nhìn vào bức tường vôi màu vàng, thì ôi thôi! Hàng trăm con rệp lớn nhỏ túa chạy tứ tung như chùm pháo bông. Con tìm chỗ hổng ẩn núp, con nhát sợ thì chạy quíu chân rơi xuống ván nằm, mình mẩy tôi gai ốc nổi lên.

Tác giả kể tiếp những tù nhân chỉ được một chén cơm hẩm với vài ba hạt muối và một lít nước mỗi ngày. Họ bị cùm như thế suốt ngày đêm, mỗi tuần chỉ được tháo ra 15 phút ra ngoài trời hít khí thở. Riêng trường hợp ông Thế Sỹ Trần Văn Hùng, ông ở trong cái hầm khủng khiếp này khoảng 2 năm trời!
Hòa Thượng Thích Thiện Minh, tục danh Huỳnh Văn Ba, (sinh ngày 29/8/1955 tại Xã Vĩnh Lợi, Bạc Liêu), chỉ vì trung thành với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, năm 1979, ngài bị Cộng Sản bắt giam hành hạ đủ điều trong 26 năm trời, mãi tới năm 2005 mới được trả tự do nhưng bị công an khu vực giám sát chặt chẽ. Năm 2006, Hòa Thượng Thích Thiện Minh lập ra Hội Aùi Hữu Tù Nhân Chính Trị Tôn Giáo Việt Nam và xuất bản quyển Hồi Ký 26 Năm Lưu Đày. Lập tức, dịp Tết Đinh Hợi 2007, CSVN cho công an bắt đấu tố ngài ở Bạc Liêu, khủng bố tinh thần, ngăn tỏa không cho ai đến viếng thăm ngài. Trong quyển hồi ký của ngài, ngài kể lại trại tù Xuân Phước của CSVN như sau:

Những ngày đầu mới thành lập trại này thì thật là khủng khiếp, tù nhân bệnh nặng không có thuốc chữa trị, mặc dầu có bác sĩ giỏi, bác sĩ đang cải tạo đành phải bó tay đứng nhìn bệnh nhân giãy chết. Bệnh nhân là những người anh em cùng cảnh ngộ như mình rất đáng thương, thương lắm nhưng biết phải làm sao? Giai đoạn đầu tù nhân chết không có quan tài, chỉ bó sơ một chiếc chiếu không được lành lặn cho lắm. Về sau mới có quan tài nhưng không đủ đinh để đóng nắp đậy, khi đưa xác đi chôn quan tài được đặt trên một chiếc xe, gọi là “xe cải tiến” dùng tay đẩy đi. Khốn khó trong khi đẩy, đinh bị mục, ván thùng xe rớt xuống đất, chiếc quan tài cũng rớt theo, thi hài lộ ra ngoài nằm sõng soài trên đất. [Trang 133]

Những tháng ngày kỷ luật tại K2, linh mục Nguyễn Huy Chương đã chết vì đói khát, vì bạo bệnh không được chữa trị kịp thời bởi thủ tục rườm rà và nhất là có thành kiến với tôn giáo. Có những hôm trong kỷ luật, linh mục Chương cùng Thượng Tọa Thích Huệ Đăng tức Thầy Nguyễn Ngọc Đạt phải ngồi rửa từng hạt cơm và đếm chỉ được vài mươi hạt. Hai nhà lãnh đạo tinh thần ngồi nhìn nhau rồi lắc đấu, vì nước muối quá mặn, thóc sạn cũng quá nhiều và thêm mấy lát khoai mì có mùi ẩm mốc; nước muối quá mặn nên ai cũng bị khát nước, khát đến khô cuống họng. Hôm nào có người trong phòng được gọi lên làm việc, khi đi ngang chỗ lò rèn ghé tạt ngồi xuống thật nhanh, uống thật nhiều nước ngâm sắt lò rèn để về phòng tiểu lại cho bạn tù uống, hoặc đi làm việc mà xin được đi tắm thì cũng uống nước thật đầy bụng để về “chia sẻ” với anh em. [Trang 125]

Trong lúc ấy mọi người chúng tôi quần áo bị mục nát, quần đùi không còn đủ để che thân. Linh mục Vàng bị mủ ghẻ khắp thân thể, ngoại trừ trên mặt thì không có, ghẻ mủ dày như dề cơm cháy khét đen. Còn linh mục Nguyễn Quang Minh thì bị đánh trọng thương, đánh ra máu miệng, cả hậu môn, chỉ vì đem vào trại vài chiếc “bánh thánh” để rồi qua đời sau đó mấy ngày. Riêng linh mục Nguyễn Luân bị bệnh phổi nặng (ung thư phổi) do nhiều năm trong kỷ luật ngủ không mùng, không chiếu. Bản thân tôi bị lao hạch và trong phổi có nước. Mọi người sống trong không khí ô trược vì chiếc hủ vệ sinh để trực tiếp ngày đêm trong phòng, tiểu tiện tại chỗ, lâu lâu mới cho đi đổ một lần, để lâu sinh ra giòi, chân tôi bị quyện lâu ngày lở loét, tối đến giòi bọ bò lên chỗ loét, tới sáng mới phát hiện ra!! [Trang 144]
Mỗi lần tôi đi ra ngoài đổ hủ vệ sinh, tôi nhanh tay với hái một nắm cỏ mầng trầu hoặc loại cỏ nước mặn, loại cỏ tạp cho bò ăn. Cỏ còn có mùi phân người, tôi lén đem vào phòng lấy nước rửa sơ rồi chia nhau mỗi người một ít, để nhai ăn cho đỡ thèm rau tươi, chúng tôi ăn cỏ mà cảm thấy nó ngọt vô cùng. Nếu bị phát hiện họ không cho đem vào phòng, tôi tìm cách trả lời “đem cỏ vào để trên mặt hủ vệ sinh để đi tiêu cho nước khỏi dơ.” [Trang 145].

Hơn nửa triệu quân dán cán chính Việt Nam Cộng Hòa và các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo đã bị đày đi vô trại cải tạo như thế. Vì tù đày quá khắc nghiệt nên nhiều người đã chết. Nhiều người bị giam cầm 5 năm, 10 năm, 13 năm hoặc hơn thế nữa. Thí dụ, ông Trần Văn Tuyên, 64 tuổi, một chính khách lỗi lạc của Nam Việt Nam, 2 tháng sau khi Sài Gòn thất thủ, đã bị Cộng Sản bắt. Ông Tuyên bị cai tù Cộng Sản liệt vào thành phần “cứng đầu”. Họ buộc ông Tuyên phải viết lời tự thú. Ông Tuyên nộp trả lại xấp giấy trong đó chỉ viết vỏn vẹn có 2 câu: “Tôi không hề phạm tội gì chống lại Tổ Quốc hay dân tộc Việt Nam của tôi. Nếu tôi có làm gì sai, thì đó chỉ là việc sai quấy dưới ánh mắt của ĐCSVN.” Ông Tuyên chết trong trại cải tạo năm 1976. Đầu thập niên 1990s, dưới áp lực của Hoa Kỳ và quốc tế, CSVN đồng ý thả các tù nhân chính trị này ra để họ đoàn tụ với gia đình và di dân sang Hoa Kỳ qua chương trình H.O.

CSVN lùa dân chúng vào Vùng Kinh Tế Mới mà nơi đây là rừng thiêng nước độc hoặc những đất khô cằn. Người dân bị Cộng Sản ép buộc làm từ sáng tới tối để dọn sạch cây cối trong rừng và đào kênh dẫn nước vào những vùng đất khô cằn này. Nhiều người đã phải bỏ mình vì thiếu thuốc men và dinh dưỡng. Đây là những trại khổ sai chớ không phải là những Vùng Kinh Tế Mới như Cộng Sản rêu rao.
Vì những chính sách phi nhân như vậy nên từ năm 1975-1989, khoảng 2 triệu người bỏ nước ra đi tìm tự do bằng cách đi bộ hoặc vượt biên trên các ghe thuyền nhỏ. Hàng ngàn người đi bộ đã bị cộng quân của Pol Pot bắt giết, và khoảng nửa triệu người vượt biên bị làm mồi cho biển cả hoặc bị hải tặc bắt hiếp và thủ tiêu. Nhiều người bị đắm thuyền do những tai ương của thiên nhiên. CSVN cũng kế hoạch cho người dân vượt biên và họ đòi mỗi đầu người là 10 cây vàng hoặc hơn nữa. Sau khi đã nhận được tiền, Cộng Sản làm ngơ để cho các ghe thuyền rời khỏi Việt Nam. Có những trường hợp, CSVN nuốt lời, họ cho công an rượt đuổi bắt những người vượt biên, nhốt những người này lại, tịch thu tài sản, hành hạ họ đủ điều. Có những trường hợp Cộng Sản dấu thuốc nổ trong ghe, và khi ghe ra ngoài khơi, nhiều chiếc đã bị nổ tung không còn một người sống sót. Cộng Sản đã sử dụng hoàn cảnh và lòng ước muốn của người dân muốn ra khỏi nước để vắt kiệt từng xu hào của họ, và Cộng Sản đã lấy làm khoan khoái trước những khổ đau của những người cùng giòng máu với họ. Những mất mát và thương đau của người Việt vượt biên đã động lòng những dân tộc khác đến độ người ta gọi đây là Lễ Hy Tế Của Thế Kỷ. Sự ra đi ồ ạt của người dân Việt Nam là một trong những bằng chứng hùng hồn cho thế giới thấy rằng chế độ Cộng Sản không phải là một chế độ hợp pháp để đại diện cho người dân Việt Nam; do đó, các cơ quan quốc tế cần phải làm áp lực để cho Cộng Sản trả lại quyền tự quyết cho dân tộc Việt ngõ hầu họ tự chọn lấy số mạng cũng như những ai xứng đáng để đại diện cho họ.

Sau khi Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô đầu thập niên 1990s, ĐCSVN ngưng không làm đầy tớ của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản nữa, họ chuyển sang làm nô bộc cho các đại tư bản. Để đáp ứng nhu cầu cần nhân công rẻ mạt của các tay đại tư bản, ĐCSVN trở thành những tên mộ phu mới của thời đại, ép buộc và khai thác sức lao động của các công nhân Việt Nam. Vào đầu năm 2007, thống kê của Bộ Lao Động CSVN cho biết có hơn 150 ngàn nhân công Việt Nam xuất khẩu lao động ở những quốc gia tại Đông Âu, Nga, Trung Đông, Singapore, Mã Lai Á, v.v. Thêm vào đó, hàng trăm ngàn thiếu nữ Việt Nam, vì sự khó khăn tài chánh, đã bị dụ dỗ hoặc bị ép buộc làm nô lệ tình dục và khổ sai qua hình thức hôn nhân với những người nước ngoài. Cuối năm 2003, trên mạng Ebay đã có những hình của thiếu nữ Việt Nam và người ta rao bán các thiếu nữ này với giá khoảng $10,000.00 Mỹ Kim. Chính vì việc làm ô nhục này, cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã cùng với nhiều nhóm tranh đấu cho nhân quyền biểu tình phản đối mãnh liệt.

Sau hơn ba thập niên cai trị đất nước, ĐCSVN biến nước Việt thành một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới. Lợi tức của Việt Nam khoảng 50 tỷ Mỹ Kim một năm, chia đều ra thì khoảng chừng 650 Mỹ Kim cho một người. Trong 50 tỷ Mỹ Kim đó, CSVN nhận viện trợ từ các nước ngoài khoảng hơn 3 tỷ (năm 2006, Nhật viện trợ cho Việt Nam 1.25 tỷ USD, Châu Âu viện trợ cho Việt Nam 1.5 tỷ USD, và Mỹ viện trợ cho Việt Nam gần .5 tỷ USD), các công ty nước ngoài đầu tư vào thêm 1.5 tỷ USD, và những người Việt Nam ở nước ngoài gởi về giúp thân nhân trong nước khoảng 5 tỷ USD mỗi năm. Trước đây, khi những người Việt vượt biên thì Cộng Sản đã gọi họ là “những tên phản bội” đất nước và dân tộc, nhưng giờ đây họ lại liếm lại những lời đã nhổ ra và gọi những người Việt hải ngoại là “khúc ruột ngàn dặm”. Hiện nay, mức tăng trưởng hàng năm của Việt Nam là 8%, nhưng mức lạm phát cũng không thua kém gì mức tăng trưởng, đó là 8%. Do đó, mức phát triển của Việt Nam rất là chậm so với các quốc gia khác. Những kỹ nghệ và sản phẩm chính của Việt Nam là gạo, cao su, đường, sợi dệt, hóa chất, và các kỹ nghệ nhẹ như sản xuất thực phẩm, quần áo, giày dép, v.v. Điều này cho thấy Việt Nam sản xuất nguyên liệu, và nguyên liệu thì rẻ mạt, mà phải nhập cảng những hàng hóa đã chế biến xong, và sự nhập cảng thì lại mắc mỏ rất nhiều lần. Sự khác biệt này vắt kiệt tài nguyên của Việt Nam làm cho Việt Nam trở thành một quốc gia nô lệ ở một dạng thái mới.

Cộng Sản đổ lỗi nói rằng đất nước nghèo đói là vì những di sản của chiến tranh và vì những lực lựơng thù nghịch chống đối phá không cho họ xây dựng đất nước. Lập luận này của Cộng Sản không thuyết phục được ai vì những lý do sau đây:

1/ Năm 1945, Nhật đầu hàng Hoa Kỳ. Nhật đã phải bồi hoàn chiến tranh cho những thiệt hại gây ra cho Hoa Kỳ và Đồng Minh trong Đệ Nhị Thế Chiến với một số tiền khổng lồ, thế mà, chỉ sau 15 năm, Nhật đã trở thành một siêu cường về kinh tế. Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 3 thập niên rồi, gấp 2 lần thời gian Nhật cần để tái thiết đất nước, do vậy, Cộng Sản đổ lỗi cho sự trì trệ và không phát triển được của đất nước là những hệ lụy tồn động lại của chiến tranh là ngụy biện;

2/ Trước năm 1975, mỗi năm Nam Việt Nam nhận viện trợ $750 triệu Mỹ Kim từ Hoa Kỳ và những quốc gia khác, thế mà Nam Việt Nam vừa phải đánh nhau với Bắc Việt, vẫn xây dựng được đất nước trở thành một quốc gia hùng mạnh trong vùng, hơn hẳn cả Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Singapore. Bây giờ, mỗi năm Cộng Sản nhận trợ giúp và đầu tư của các quốc gia là 4 tỷ USD, người Việt hải ngoại gởi về 4 tỷ USD nữa, và đây là thời bình, thế mà với số tiền to lớn hơn cả 10 lần như vậy, kinh tế Việt Nam vẫn không vực dậy nổi, vẫn èo uột!!

3/ Những lực lượng mà Cộng Sản cho là “phản động” hiện nay không bằng 1% với những hoạt động của Cộng Sản trước đây đối với chính phủ của Nam Việt Nam. Dầu Cộng Sản phá thối với một phạm vi to lớn và quy mô, Nam Việt Nam vẫn phát triển trở thành một quốc gia phồn thịnh, tại sao?
Lý do chính yếu kinh tế Việt Nam hôm nay không phát triển được là vì nhà nước Việt Nam được điều hành bởi độc đảng làm cho tệ nạn tham nhũng lớn mạnh tràn lan, luật pháp không tôn trọng, đưa đến nhiều bất công áp bức đối với dân chúng. Nhà nước Việt Nam sử dụng ngân khoản quá lớn, khoảng 25% lợi tức của quốc gia, để sử dụng vào lực lượng công an, cảnh sát và tình báo ngõ hầu bảo vệ quyền lợi của ĐCSVN và sự thống trị của đảng này hơn là quyền lợi của dân chúng và sự an ninh của quốc gia. Đây là sự hoang phí làm thiệt hại đất nước, và chính cơ chế độc đảng này làm trì trệ hệ thống điều hành, gây trở ngại cho những người ngoại quốc và ngay cả những Việt kiều cũng không dám đầu tư vào Việt Nam nên không lạ gì hậu quả của nó là một tai họa về kinh tế.

Đương nhiên hiện nay ở Việt Nam có những thay đổi và những xây cất các tòa nhà và đường xá mới. Nhưng, mức phát triển của Việt Nam quá chậm so với những quốc gia lân cận. Đáng buồn thay, những xây cất chiến lược như xây cất trường học, nhà thương, dịch vụ xã hội, các nhà máy xưởng kỹ nghệ nặng và kỹ nghệ nhẹ, thì lại quá ít so với sự tăng triển dân số cũng như mức độ phát triển nhanh chóng của các quốc gia trong vùng. Những xây cất các hộp đêm, quán càfé, những nơi giải trí, v.v. là một hình thức ru ngủ dân chúng Việt Nam, và ĐCSVN đang tung hỏa mù tạo ảo ảnh cho những người nước ngoài nghĩ rằng đất nước đang phồn thịnh, song le, sau vài năm đầu tư vào Việt Nam, nhiều công ty nước ngoài bỏ của chạy lấy người vì cái gọi là phồn vinh kia hoàn toàn là hiện tượng hơn là bản chất.

Hơn nữa, CSVN tiếp tục đàn áp tự do tín ngưỡng như gần đây đầu năm 2007, nhân dịp Tết Đinh Hợi, họ phát động chiến dịch bắt giam và khủng bố các vị lãnh đạo tinh thần linh mục Nguyễn Văn Lý , mục sư Nguyễn Hồng Quang, mục sư Hồng Trung của Đảng Vì Dân, Thượng Tọa Thích Thiện Minh ở Bạc Liêu, giam lỏng hai đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, v.v, chỉ vì những nhà lãnh đạo tinh thần này dám đứng lên đòi tự do tín ngưỡng và chỉ trích ĐCSVN dám ngang nhiên tịch thu tài sản của các giáo hội.

Ngày 18 tháng 6 năm 2004, CSVN thông qua Pháp Lệnh Tôn Giáo, có hiệu lực vào ngày 15 tháng 11 năm 2004, ngăn cấm tất cả những truyền giáo tại tư gia. Đây là một hình thức đàn áp mới trên tự do tín ngưỡng.

Thêm vào đó, dịp Tết Đinh Hợi (2007), CSVN cũng ruồng bắt và khủng bố những tiếng nói dân chủ như luật sư Lê Chí Quang, ông Nguyễn Khắc Toàn, cựu đại tá Phạm Quế Dương, ông Nguyễn Vũ Bình, các thành viên của Đảng Thăng Tiến như Ls. Lê Thị Công Nhân, ông Nguyên Phong, chị Hoàng Thị Anh Đào, anh Nguyễn Bình Thành, những người trong Khối 8406 như Ls. Nguyễn Văn Đài, kỹ sư Đỗ Nam Hải. v.v.

Chính sách tàn bạo của CSVN làm cho cả những người sắc tộc phải bất mãn. Vào trung tuần tháng 4 năm 2004, hàng trăm ngàn người sắc tộc ở Ban Mê Thuột biểu tình đòi được tự do tín ngưỡng và đòi nhà cầm quyền CSVN trả lại đất tổ tiên cho họ. CSVN đàn áp cuộc biểu tình này cách dã man, nhiều người bị giết chết, hàng ngàn người bị thương, và hàng chục ngàn người bỏ chạy trốn trong rừng sâu và nhiều ngàn người di tản sang tỵ nạn ở Cambodia.

Người dân làng Kim Nỗ cũng có những cuộc biểu tình tương tự giống như những sắc dân thiểu số. Vào tháng 12 năm 2004, dân làng mang giáo mác gậy gộc, những dụng cụ của nhà nông, và cầm đá tấn công đội ngũ công an do Trung Ương sai đến. Trung Ương sai công an đến dẹp cuộc biểu tình để tịch thu đất đai của dân làng. CSVN nói họ mua đất của dân làng, nhưng trong thực tế, họ ép buộc giá rẻ như bèo để lấy đất này cho một công ty người Nam Hàn thuê làm một sân golf. Năm 1995, CSVN ký một hiệp ước với Daeha, một công ty Nam Hàn, và theo hiệp ước này, CSVN cho công ty Daeha thuê hàng 100 năm một khu đất rộng 128 hecta để làm sân golf. Giá cả cho thuê rất là cao, các cán bộ cao cấp của CSVN lấy tiền bỏ túi. Năm 1998, CSVN cho công an xuống đuổi dân làng Kim Nỗ ra khỏi vùng đất tổ tiên của họ, dân làng nổi giận và đã phản kháng. Công ty Daeha thấy sự phản kháng mãnh liệt của dân làng Kim Nỗ, họ hãi sợ, xin tạm rút lui kế hoạch. CSVN khéo léo lập ra một công ty khác dưới ô dù của Trung Ương, công ty Noble, và họ dùng công ty Noble để điều hành việc xây cất sân golf. CSVN nghĩ rằng họ dùng chính người Việt Nam đàn áp người Việt Nam thì chắc dân làng không dám phản kháng. Tháng 12 năm 2004, công ty Noble quyết định tiến hành kế hoạch đuổi dân làng Kim Nỗ đi, thế là xảy ra cuộc đụng độ lớn giữa dân làng Kim Nỗ và lực lượng công an. Dân làng Kim Nỗ không có một cây súng trong tay, nhưng với lòng quyết tâm, họ đã đẩy lùi được lực lượng công an. Nếu CSVN dám làm những chuyện tàn ác phi nhân như vậy với dân làng Kim Nỗ thì chuyện gì mà họ không dám làm với những người dân tộc thiểu số như ở Tây Nguyên? Vì những vụ cướp đất như vậy nên nông dân trong những năm qua tề tựu về Vườn Hoa Mai Xuân Thưởng biểu tình đòi Nhà Nước và ĐCSVN phải trả lại nhà cửa đất đai cho họ. Những nông dân này đã được sự hỗ trợ đặc biệt của các nhà đấu tranh cho Tự Do – Dân Chủ như nhà văn Trần Khải Thanh Thủy và nhà báo Nguyễn Khắc Toàn. E ngại sự lớn mạnh của cuộc biểu tình, Cộng Sản đã liên tục khủng bố các nhà đấu tranh cho Tự Do – Dân Chủ và số phận của họ bị tù đày lúc nào cũng không biết.

Chưa hết, vào năm 2004, CSVN thông qua Nghị Quyết 36 quyết định chi nhiều trăm ngàn Mỹ Kim để cho các tình báo của họ xâm nhập vào sinh hoạt trong các cộng đồng người Việt hải ngoại ngõ hầu tạo sự phân hóa trong các lực lượng Quốc Gia, và từ đó các lực lượng này suy yếu đi tạo cơ hội cho Cộng Sản dễ dàng kiểm soát và khống chế các lực lượng này. Vì sách lược này của Cộng Sản, người Việt hải ngoại quyết tâm hơn nữa trong việc chống Cộng, và họ thề không bao giờ tin tưởng để cộng tác với Cộng Sản trong cái gọi là “hòa hợp hòa giải” xây dựng đất nước. Ở trong nước thì vào ngày 29/11/2006, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng thừa lệnh Bộ Chính Trị ra Chỉ Thị 37 siết họng truyền thông báo chí, cương quyết không cho tư nhân hóa bất kỳ một cơ quan truyền thông nào ở bất kỳ mọi hình thức, cả hình thức trang nhà trên mạng thông tin hoàn cầu. Tháng 11 năm 2006, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC (CPC = Countries of particular concerned – các quốc gia cần được quan tâm), nhưng sau đó thấy những việc làm vi phạm nhân quyền vừa nêu trên, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và tổ chức Human Rights Watch lập tức lại phải liệt kê Việt Nam là một trong những quốc gia vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất.

Chính vì những đàn áp như vậy, không lạ gì văn hóa Việt Nam ngày hôm nay là văn hóa cung đình sặc mùi ca tụng các lãnh tụ Cộng Sản, từ đó, xã hội bị băng hoại, càng ngày tội ác càng gia tăng, giá trị luân lý mà cha ông đã nâng niu tôn trọng bị coi thường và chà đạp: Hơn ba thập niên cai trị của CSVN là hơn ba thập niên thảm họa cho đất nước. Cầu xin cho chế độ này sớm chấm dứt để Việt Nam và nhân loại được tươi sáng hơn.

Nhưng, khi Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô cũ, chỉ vài năm sau, người ta ngạc nhiên khi thấy các thoái thân của các Đảng Cộng Sản lừng lững trở lại nắm chính quyền chỉ vì Lực Lượng Dân Chủ không giải quyết được những yêu cầu của quần chúng. Thí dụ, Tổng Thống Lech Walesa, người hùng của Công Đoàn Đoàn Kết, con chim đầu đàn làm sụp đổ chế độ Cộng Sản tại Ba Lan, năm 1990 được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của chế độ dân chủ, thế nhưng vào năm 1995 lại thua cho ông Aleksander Kwasniewski, 41 tuổi, Chủ Tịch của Liên Minh Dân Chủ Tả Phái tức là hậu thân của Cộng Sản!! Tháng 11 năm 2006, ông José Daniel Ortega của Đảng Cộng Sản Sandinista đã đắc cử chức Tổng Thống tại Nicaguara sau khi chế độ Cộng Sản đã bị thoái trào hơn 10 năm tại quốc gia này. Câu hỏi được đặt ra đó là liệu hiện tượng này có diễn ra tại Việt Nam sau khi ĐCSVN thoái trào? Câu hỏi này chỉ được trả lời khi nào phe đấu tranh cho Tự Do – Dân Chủ chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhân sự, sách lược và tài chính. Đặc biệt, phe đấu tranh cho Tự Do – Dân Chủ phải có lòng bao dung với nhau, lá lành đùm lá rách, tạo sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh thì may ra mới ngăn chận hiện tượng đau lòng là sự trở lại nắm quyền của Đảng Cộng Sản./.

Houston ngày 7/3/2007
Hoa`ng Duy Hu`ng

April 30, 2008

Gạo VN trở thành vũ khí chiến lược của Bắc Kinh !!!

Đoàn Hưng Quốc

Mỗi quyết định của đảng Cộng Sản Việt Nam đều có hai, ba mặt trái mà thông thường hưởng lợi là bọn đầu cơ, giai cấp cầm quyền tay sai và đế quốc Trung Hoa chớ không phải nhân dân Việt Nam.

Từ đầu năm đến nay giá gạo thế giới tăng vọt hơn gấp đôi, nhà nước ra lệnh ngưng sản xuất để bảo đảm an toàn thực phẩm. Thoạt nghe thì có lý nhưng xem lại thì nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long bị thiệt thòi vì vật giá tăng mà gạo lại giữ giá vì không bán được. Các chuyên viên kinh tế và nông nghiệp của VN cũng lên tiếng phản đối, họ nhận xét rằng với phương thức sản xuất hiện thời VN không sợ bị thiếu gạo, mà trái lại cần bán ra nước ngoài để tăng lợi nhuận và mức sống của nông dân.

Mặt trái thứ nhất, trước đây có nhiều bài phân tích cho thấy các doanh nghiệp nhà nước đã ký nhiều hợp đồng với Phi-Luật-Tân và Indonesia với giá 350 đô-la/tấn (so với thị trưòng hiện thời là 750 đô-la/tấn), bây giờ mua gạo mới lắp vào kho sẽ bị thua lỗ nặng nề nên vận động tạm ngưng xuất cảng nhằm kềm giá gạo của nông dân.

Mặt trái thứ nhì, Trung Quốc can thiệp không để VN xuất cảng gạo hầu biến vựa lúa miền Nam thành kho lương thực dự trữ của mình. Từ khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu ăn uống tiêu thụ của dân Trung Hoa cũng tăng, bên cạnh đó một số diện tích đất đai canh tác bị mất vì phát triển đô thị, nên hiện tại giá thực phẩm tăng vọt, ngũ cốc khan hiếm. Trong tương lai nếu xảy ra nạn đói thì có nguy cơ dân nghèo nổi loạn là mối lo canh cánh của Bắc Kinh. Trong ba nước sản xuất lúa gạo nhiều nhất, Thái Lan đã xuất cảng nhiều năm nên các quan hệ buôn bán với thế giới vững chắc và khó bị khuynh đảo; Ấn Độ là nước đông dân thứ nhì nên phải lo phần mình trước, hơn nữa với Trung Hoa có những tỵ hiềm chiến lược và ngấm ngầm nên nhất quyết sẽ không có thiện ý giúp đỡ; chỉ còn Việt Nam với bộ chính trị bị xỏ mũi và nền kinh tế bị lũng đoạn, đối với nhà cầm quyền thì Bắc Kinh “khuyến cáo” không nên xuất cảng gạo ra thế giới để bảo đảm an toàn lương thực trong nước và giúp đỡ nước láng giềng (!) khi cần thiết, còn về mậu dịch thì Trung Quốc tung lái buôn vào mua gạo với giá cao hơn thị trường – nhưng thấp hơn giá quốc tế. Sau đó gạo chở lậu qua biên giới đường bộ rẻ mà lại không đóng thuế xuất cảng, phí tổn quá thấp so với mua gạo chở đường biển qua các cửa khẩu xuất cảng của Thái Lan và Ấn Độ.

Mặt trái thứ ba có dính líu đến quần đảo Trường Sa: Phi-Luật-Tân là một trong các nước giành  chủ quyền nhưng lại nhập khẩu gạo hàng đầu, hiện phải đối phó với tình trạng dân nghèo nổi loạn vì thiếu lương thực. Bán gạo cho Phi thứ nhất là giúp giải quyết nạn đói tạo ổn định xã hội, nhân đó củng cố vị thế trên bàn thương thuyết… của Trung Quốc, bởi vì điều kiện để sản xuất gạo VN là do Bắc Kinh đặt ra, Trung Hoa (và tay sai) hưởng lợi chớ còn dân Việt chỉ nay lưng ra làm công giá rẻ trên chính đất nước của mình phục vụ bá quyền.

Mặt trái thứ tư là các nước Phi Châu cũng đang có nguy cơ bị đói vì giá lương thực lên cao. Đây lại là nơi mà Trung Quốc cần bành trướng ảnh hưởng để chiếm đoạt tài nguyên và thị trường mậu dịch, Trung Quốc xử dụng gạo Việt Nam như một vủ khí chiến lược để khuynh đảo các lực lượng chống đối và củng cố các thành phần thân thiện.

Trong hoàn cảnh thua thiệt mọi bề thì người dân Việt Nam cũng có một điều lợi, là Trung Quốc sẽ cẩn trọng trong việc điều tiết lưu lượng nước tại các đập thượng nguồn sông Hồng và sông Cửu Long để các vựa lúa sản xuất đầy kho lương thực.

Dân tộc chỉ còn có một biện pháp đối phó duy nhất là phải tranh đấu dân chủ hoá đất nước càng sớm càng tốt để bọn  cầm quyền tay sai không còn chỗ đứng, rồi từ đó trên dưới một lòng cứng rắng nhưng mềm dẽo trong chính sách ngoại giao với Trung Quốc.

http://www.doi-thoai.com/baimoi0408_423.html


Giải pháp hành chính cho giá gạo VN
 
Giáo sư Võ Tòng Xuân từ Đại học An Giang
Giáo sư Võ Tòng Xuân từ Đại học An Giang

Dù giá gạo tại Việt Nam đã tạm thời “hạ sốt” nhưng truyền thông trong nước vẫn đặt câu hỏi liệu nền kinh tế quốc gia có phải đang không ổn định vì dựa trên xuất khẩu lúa gạo và chịu tác động của giới đầu cơ.

Giáo sư Võ Tòng Xuân, từ Đại học An Giang, cho rằng nhà nước hoàn toàn có thể khống chế được vấn đề giá gạo.

Trong cuộc trao đổi với BBC Việt ngữ ngày 28.04, GS Xuân, một chuyên gia khuyến nông cho rằng thị trường lúa gạo ở Việt Nam hoàn toàn không gặp vấn đề sút giảm khối lượng cung cấp.

Theo ông, việc giá gạo tăng đột biến trong mấy ngày gần đây là do bàn tay của giới doanh thương buôn bán thóc gạo đầu cơ và ghìm giá nhằm trục lợi.

Năm tầng nấc gạo

Giáo sư Xuân cho hay có ít nhất năm tầng nấc trong hệ thống phân phối lúa gạo, đặc biệt ở đồng bắng Sông Cửu Long. Đó là thương lái buôn thóc gạo ở cấp xã, thương lái ở cấp huyện, thương lái chế biến gạo, công ty và các tổng công ty.

 Chính việc không xuất khẩu gạo do sợ liên quan đến an ninh lương thực là một nguyên nhân làm cho những người nắm gạo ở trong nước rất mừng
 
Giáo sư Võ Tòng Xuân

 

Chính những người thương lái các cấp này có vai trò quyết định trong việc ghìm giữ hoặc giải phóng phân phối thóc gạo.

Người đứng đầu đại học An Giang cho hay, việc đầu cơ thóc gạo của các thương lái năm nay còn được tiếp sức bởi một quyết định mà theo ông là không hợp lý của Chính phủ.

Ông nói: “Chính việc không xuất khẩu gạo do sợ liên quan đến an ninh lương thực là một nguyên nhân làm cho những người nắm gạo ở trong nước rất mừng.”

“Những người này tiếp tục mua gạo với giá rẻ và neo gạo lại, làm cho giá thóc gạo tăng lên”.

Ông Xuân cũng nói quyết định đóng cửa xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện đang làm cho Thái Lan được hưởng lợi lớn. Quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, đối thủ cạnh tranh của gạo Việt Nam này, đang một mình một ngựa độc diễn “đẩy giá gạo lên” trên thế giới như họ muốn.

Biện pháp hành chính

Chuyên gia khuyến nông từ Đại học An Giang cho hay trong ngắn hạn, Chính phủ cần có các biện pháp giải thích, động viên kể cả hành chính đối với giới đầu cơ thóc gạo.

Giáo sư Võ Tòng Xuân nhắc lại một chuyện được cho là giai thoại khi người đứng đầu Chính phủ Việt Nam Cộng hoà, ông Nguyễn Cao Kỳ, vào năm 1966 đã đe doạ sử dụng hình phạt tử hình với 12 nhà đầu cơ gạo lớn nhất của miền Nam khi giá gạo đột nhiên leo thang sau khi ông Kỳ lên nhậm chức.

“Chỉ 24 tiếng đồng hồ sau cuộc gặp mặt với Tướng Kỳ, giá gạo Sài Gòn và Đồng Bằng Sông Cửu Long hạ ngay xuống”.

Ông Xuân tin rằng, Chính phủ Việt Nam hiện nay, nhất là với lực lượng công an cơ sở trải khắp, nắm rất rõ ai là người đầu cơ gạo. Và chính quyền hoàn toàn có thể ra lệnh để những người này phải bán gạo ra thị trường.

Ngoài ra, Chính phủ nên mở trở lại thị trường xuất khẩu gạo trong nước để việc sản xuất, phân phối lưu thông được diễn ra bình thường và làm giảm khả năng can thiệp của giới thương lái đầu cơ.

Chưa có thống kê chính thức nào của Chính phủ về tổn hại do việc giá gạo tăng đột biến gây ra cho người tiêu dùng ở Việt Nam

Về lâu về dài, giáo sư Võ Tòng Xuân đề nghị, nhà nước cần tiến hành đồng thời một loạt biện pháp để ổn định sản lượng, khống chế giá cả và điều tiết thị trường thóc gạo.

Vẫn theo lời ông Xuân, Chính phủ nên sử dụng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn như một cơ quan tham vấn chiến lược về vấn đề sản xuất, lưu thông, xuất khẩu gạo. Bộ này cần nâng cao khả năng nắm bắt thông tin, hoạch định các kế hoạch liên quan đến sản xuất, an ninh và thị trường lúa gạo để tư vấn Chính phủ.

Về mặt sản xuất, giáo sư Xuân đề nghị Việt Nam nên chuyển hướng, giảm cạnh tranh về gạo chất lượng cao với Thái Lan, để tập trung vào các giống cao sản có thể lên tới 8 tấn trên một hecta, kháng rầy nâu và sâu bệnh khác, để vừa đóng góp cho xuất khẩu vừa đảm bảo an ninh trong nước.

Chưa rõ các giải pháp kỹ thuật mà chuyên gia khuyến nông hàng đầu của Việt Nam này đưa ra sẽ được Nhà nước lắng nghe đến đâu, song theo quan sát của dư luận, xem ra việc sử dụng biện pháp hành chính với giới ma-fia thóc gạo ở Việt Nam có thể là hơi khó vì tình hình và quan hệ đầu cơ hiện nay ở Việt Nam là rất khác so với thời kỳ ở miền Nam trước năm 1975.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/04/080429_vo_tong_xuan_rice.shtml

April 24, 2008

Bộ trưởng Ngoại giao TQ thăm VN

 


Ông Dương thăm VN trong hai ngày 23 và 24/4
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đang có chuyến thăm chính thức Việt Nam từ ngày 23-24/4.
Ông Dương đã có cuộc hội đàm hôm thứ Tư với người đồng nhiệm, kiêm Phó Thủ tướng Việt Nam, ông Phạm Gia Khiêm.

Trong các lĩnh vực được bàn tới, nổi bật hai chủ đề: đàm phán giải quyết toàn diện việc cắm mốc biên giới giữa hai bên và công tác tổ chức Olympics Bắc Kinh 2008.

Về đàm phán biên giới, hai bên thống nhất một Hiệp ước mới về quản lý biên giới trong năm 2008.

Thông tấn xã Việt Nam đưa tin hai bên cũng “nhất trí cần tiếp tục thúc đẩy các cuộc đàm phán về phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và xúc tiến triển khai hoạt động khảo sát khoa học chung tại khu vực này”.

Quan điểm chính thống được loan báo là “kiên trì đàm phán về các vấn đề trên biển Đông, thực hiện nghiêm chỉnh các Thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước và nhận thức chung trong các cuộc đàm phán”.

Quan hệ hai bên mới đây đã có một số trục trặc khi Trung Quốc thành lập thành phố hành chính Tam Sa hồi tháng 12/2007 để quản lý các quần đảo, trong có Hoàng Sa và Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.

Sự việc này đã dẫn tới các cuộc biểu tình phản đối rầm rộ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Bảo đảm an toàn rước đuốc

Hội đàm giữa bộ trưởng Ngoại giao hai nước hôm thứ Tư tại Hà Nội cũng bàn về quá trình tổ chức Thế vận hội Bắc Kinh, diễn ra vào tháng Tám tới.

TTXVN nói phía Việt Nam “bày tỏ hết sức coi trọng Thế vận hội Olympic Bắc Kinh 2008 và khẳng định sẽ tổ chức tốt Lễ rước đuốc tại Thành phố Hồ Chí Minh”.

Gần đây đã có nhiều lời kêu gọi lưu truyền trong giới trẻ, nhất là trong cộng đồng công dân mạng, về tổ chức biểu tình phản đối việc rước đuốc Olympic mà nhiều người cho rằng đã bị Trung Quốc chính trị hóa.

Hành trình rước đuốc mà Trung Quốc công bố có đường đi qua các quần đảo còn tranh chấp cũng khiến những phản đối về lãnh thổ lại một lần nữa nổi lên gay gắt.

Được biết an ninh tại TP HCM đang được tăng cường, một tuần trước khi cuộc rước đuốc bắt đầu.

Mới đây, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chỉ thị cho giới chức các ngành phải tuyệt đối bảo đảm an toàn cho việc rước đuốc.

Thế nhưng một số nhóm thanh niên sinh viên vẫn bàn bạc với nhau kế hoạch ra đường phản đối Trung Quốc chiếm Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam.

BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/04/080424_chinesefm_visit.shtml


Điểm đáng chú ý:
– BNG TQ qua VN ” nhấn mạnh chỉ thị” cho BNG VNcs về : HS TS, biển đông, biên giới (lấy của VN), đánh bóng tuyên truyền thành công Olympics 2008, rước đuốc tại Saigon qua việc ngăn cấm, đàn áp người phản đối rước đuốc tại Saigon, HS TS !!!
– tham vọng bành trướng, di dân, lấn đất của TQ ngàn đời không đổi !
– nhà nước VNcs khiếp nhược, nô lệ, chấp nhận ” mất đất, biển, HS TS, quyền lợi dân tộc” để được bảo hộ cầm quyền lâu dài ! Bản chất của csvn đã lộ nguyên hình !
– chúng ta đang mất nước và nhân dân, mãnh đất VN sẽ được dùng ” thí mạng ” cho tham vọng bá quyền !!

Bộ trưởng Ngoại giao TQ thăm VN 1
Bộ trưởng Ngoại giao TQ thăm VN 2
Bộ trưởng Ngoại giao TQ thăm VN 3

Nóng phỏng tay: Ghi âm các sứ quán VN ở Châu Âu trả lời về biểu tình HSTS, Hiến Pháp…
http://blog.360.yahoo.com/blog-fkTaeFY2dbKNOic32.Yv?p=11109#comments

Hình Ảnh Quân Đội Trung Cộng Hiện Diện Trên Hoàng Sa

April 14, 2008

TÔI THẤY và NGHE ĐƯƠC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM V.N sau 32 năm dưới chế độ CS

PHÓ THƯỜNG DÂN –


Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi , tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực .                                                                                                                  

Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với  : Những khách sạn 5 sao , 4 sao lộng lẫy . Đổi mới với những nhà hàng ‘‘ vĩ đại ’’ trên các tuyến đường du lịch . Với  những trung tâm ‘‘thư giản’’ sang trọng, quý phái cở  câu lạc bộ  Lan Anh .Với  những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội . Với những trường Trung học tư thục mangtên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ,  giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ – 600US$ đến 1000US$ /tháng . (giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con?)                                                       

 Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử ‘‘đỏ’’, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau , các quan chức đỏ đô la đầy túi . Họ đến đây để ‘‘thư giản’’, uống rượu , đánh bạc ,cá độ và tìm gái . Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP , XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XỌ Vụ MPỤ18 cá độ hàng triệu US $ đã bị phanh phui..là một thí dụ cụ thể . Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi…‘‘ lắc’’ suốt đêm .Vài hôm sau – đâu cũng vào đó 

Tôi cũng thấy Sàigòn- người,xe và phố xá dầy đặc ,nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa,có cái trông giống như chiếc hộp quẹt .. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại .Vật liệu nhập cảng đắc tiền . Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi ,nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên.. ,lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…  

Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ , ngày đêm  đinh tai nhức óc và  3.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi..Và hệ thống cống rảnh lạc hậu ..mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa . Hệ thống đổ rác còn lạc hậu.. không đáp ứng nổi  nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhun nhúc như kiến.. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ ..hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra . Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận,không dám một lời phản kháng . Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1000 đô la Mỷ ..chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế , rẻ mạt.. Thuốc lá và bia – bia nội,bia ngoại – có đủ .. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn . Đảng viên,cán bộ – giai cấp thống trị –  nhậu .. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu . Hút thì khỏi nói .. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê,bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5 , Craven A,trong túi . Lãnh đạo hút,cán bộ hút , dân chúng hút – thậm chí con nít 9,10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở . Cán bộ lớn cũng âu phục  cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng.. nhưng bộ răng hô ,mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc .. cũng không dấu được  nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh .                                                    

 Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng ‘‘ tiếm công vi tư’’ lộng hành,ngang ngược của Công an  đến độ dân chúng quen thuộc ,xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ .. bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên , xây  nhà gạch dùng làm quán cà phê .. Chưa thỏa mãn – ban đêm  còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng .. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy . Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ ,ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ .     

Còn nhiều.. rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công,lấn lề đường nhan nhãn  ở khắp Saigòn . Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể : Một công thự tại vườn Tao đàn ( có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ ) – bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà , xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du , trị giá mỗi căn ,nhiều trăm ngàn mỷ kim – ngon ơ !  Tương tự như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ .. trước  sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi,quán xá la liệt  chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo ,chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng ..Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ ,bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo ,giày vớ thể thao .. buôn bán ầm ỉ ,náo nhiệt suốt ngày.                                                                                                        

Công an chiếm đất công , xây nhà tư . Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe , bịt kín cả lối đi vào nhà .  Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn .Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai?Tất nhiên là phải thưa với công an.Không lẽ công an xử công an ?  Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : ‘‘Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng . Không thể nào chống tham nhũng được  vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao ? ’’ ( Nhật ký ‘‘Rồng rắn’’ của Trần Độ ) .    

Nón cối,nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn –  đã biến mất.. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt  của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi,Lê thánh Tôn,Tự do những ngày trước 75 nữa . Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng ‘‘khẩu trang’’, găng tay dài đến cùi chỏ ,cỡi Honda chạy như bay .. trên đường phố .                                

Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống …những bà cụ già,những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường.. những anh  phế binh cụt tay,cụt chưn,lê lết trên một miếng ván gổ …đi bán vé số ( một cách ăn xin trá hình)

Bộ mặt Sàigòn ‘‘đổi mới’’ bằng những khách sạn lộng lẫy , những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng , những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại , những vũ trường cực kỳ tráng lệ , những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền .. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa .. những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố – nhiều người chóa mắt .. choáng váng , cho là ‘‘Việt Nam bây giờ tiến bộ quá’’. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ  : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục , mặt  đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng.. Lợi tức đầu người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng : 555 US$ năm 2007 ( Hà Nội bốc lên 730 US $ )chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh . So với các nước láng giềng : Thái Lan : 2550 US$ – Phi luật Tân : 1040US$ – Nam Dương : 1160US$ .Tân gia Ba 24840US$ .( The Economist World, năm 2007 – p.158,176,238 ) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa . Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi : Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn ,những biệt thự lộng lẫy  kia ? – thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ.  Và ở thôn quê – giai cấp giàu có bây giờ là ai ? giai cấp địa chủ là ai ?  Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do , mua bán làm ăn mà có ? ?                                                                                                                                                 

HIỆN TƯỢNG NGƯƠI  BẮC  XA HÔI  CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU  TOÀN  BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI  QUAN TRONG Ở  SAIGÒN –  KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU  Ở MIỀN  NAM..                                                                                                      

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng ‘‘đánh Tây,đuổi Mỷ’’ – cho dù che giấu, lấp liếm , giải thích thế nào chăng nữa – thì dân miền Nam ( gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) vẫn thấy một sự thật.  Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập , chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàgòn . Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn .. và các khu phố sầm uất nhứt .. vào những hiệu buôn lớn  để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản – từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong –  cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc . Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài,Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai,tiệm Émile Bodin của bầu Yên,  nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc ,Phạm thị Trước .. hiện nay ,một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại ..nhưng  đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn  lớn, tiệm phở ,công ty thương nghiệp,dịch vụ lớn,  những tiệm buôn bán dồ nhập cảng  v.v.. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ .. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn.. thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN . (Tất nhiên là vợ con,thân nhân cán bộ lớn ) .Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS ( do các cô tự nói ra )  . Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc..Cán bộ,công nhân viên trọng yếu – cũng đều là người Bắc – trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam – thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc .                                                                                                                                          

Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới – từ Trung ương đến địa phương – từ Tỉnh thành đến quận lỵ,thị trấn , làng xả gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ .Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại.. chủ nhân cũng là người Bắc XHCN . Từ chính trị đến văn hóa , từ giáo dục đến truyền thông,từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi,sản xuất – cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ .                   

Đó là sự thật trước mắt  ai cũng thấy . Còn những vàng bạc, kim cương,đô la ,tài sản tịch thu,chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản,cải tạo công thuơng nghiệp –  nhà cửa của tù cãi tạo ,của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại , những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung,miền Nam – được đem đi đâu ?  – Không ai biết .     

Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ.. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau . Chia nhau một cách  hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN ( Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang) .Ông lớn lấy tài sản lớn .Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ . Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4,5 căn nhà . Ở không hết … đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó  –  bèn đem ‘‘ bán non’’ những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước . Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ . Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ . Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu . Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN .                      

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp ,tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá ..đều bị ‘‘ giải phóng’’ ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách : Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở ,cho cán bộ vào ở chung( chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi ) , đổi tiền để vô sản hoá người dân , khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn , cuối cùng chịu không nổi , phải bán nhà với giá rẻ bỏ..để  vô hẻm ở , ra ngoại ô hoặc về quê … Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN  tràn vào ‘‘mua’’ nhà Saigòn với  giá gần như cho không…và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn .                                           

Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô,AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên ‘‘xẻ dọc Trường Sơn’’ bằng máu , nước mắt và xác chết … vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là ‘‘giải phóng’’ nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó chối cãi được –  là vào để  chiếm đoạt tài sản, đất đai , của cải, đuổi dân Saigòn ( gồm cả người  Nam lẫn  Bắc theo chế độ Tự Do ) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la ,vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc , những địa chủ đầy quyền lực .. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc.( Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình) . Như vậy hành vi nầy gọi là gì ?  Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình  – các ông tự gọi mình đi .                        

Đến thời ‘‘mở cửa’’ – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn..gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc , bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc , các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá , xây cất đại công tác.  Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế  – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt .. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn.. no bóc ké..   Nhiều công trình vừa xây cất xong ..đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu . Một thí dụ diển hình : Một bệnh viện gần chợ ‘‘ cua’’ Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo .. đã muốn sụp . Hiện đóng cửa không sử dụng được.     

 Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực , chiếm hữu nhà cửa,phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ . Cán bộ lớn  đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử . Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên ..  Khoản cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt ..Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực .

Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời ‘‘Bắc thuộc’’ :

  – ‘‘Năm Bắc thuộc thứ 2 : Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh .
– Năm Bắc thuộc thứ 6 : Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn  giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.
 – Năm Bắc thuộc thứ 12 : Trong ngục thất quê hương ấy , có những bộ  xương thôi tập khóc cười ..’’

Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự  đô hộ hà khắc và tinh vi.

BÔ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt,  nghe tận nơi , mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản . Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua . Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện . Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối . Đường sá có tu sửa phần nào ..Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn ( đường xóm Cái nứa,Cái chuối xã Long Mỷ VL) ,xe Honda và xe đạp chạy qua được. ‘‘Cầu tre lắt lẻo’’ , cầu khỉ  được thay thế bằng cầu ván ,cầu đúc ( vật liệu nhẹ ) . Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cáibè, Cái răng ) nay không còn thấy nữa . Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn . Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất ..xen kẻ những mái lá bạc màu . Vùng Trà ốp,Trà cú (Vĩnh Bình) , chợ Thầy Phó (Vĩnh Long ) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá,nhà tôn . Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi..          

Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc,Hà Tiên,Rạch Giá ,Cần Thơ . Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt . Nhà cửa ,hàng quán dầy đặc , động cơ ồn ào,người ta chen chúc .. Cảm giác chung là ngột ngạt,  khó thở . Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất .. hoặc thụt sâu vào trong , không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai hoằng, mát mắt vùng Cái Bè ,An Hữu , vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương ..

Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang –  hai bên bờ toàn là nhà sàn ,phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2,3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau . Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống,phóng uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi . Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá .. Basa, cá điêu hồng v.v..  ở dọc bờ sông khá dài ..Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh . Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A , chèo ghe tam bản , bơi xuồng như thời trước 75 nữa .. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng,được trả lời : ‘‘ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi !’’  Tôi hỏi thêm : ‘‘ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm , nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi,đánh đập .. các cô gái nầy không sợ sao ông ? – ‘‘ Biết hết – mấy cổ biết hết ,báo Tuổi  trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch . Cô khác thấy vậy ham . Phần nghèo ,phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may.’’  Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn,Đài Loan hiện không ai là không biết .

Tờ Tuổi trẻ  – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài : ‘‘ Nỗi đau từ những con số’’- có nói đến số phận của 65000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già,tàn tật đui mù , làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy : ‘‘Tại một tổ chức kết hôn lậu,hàng chục cô gái đang ‘‘bày hàng’’ để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm,ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình ’’ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007 ,viết : ‘‘Hơn 60 cô gái ,tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển .Các chàng rể  Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ ,chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái .Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng .Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6,10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện .Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập  gây náo loạn cả xóm’’.           

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ :Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học ,để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm ,được anh trả lời : ‘ ‘‘ Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn . Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng . Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa.’’. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ .. khoản chừng 18 đến 20 ..đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn-  có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề .                

Song song với tổ chức chánh thức ,còn có một tổ chức ‘‘ môi giới hôn nhân lậu’’- sự thật là một tổ chức buôn người ,chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái , nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để  bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia,Thá i Lan ,Ma cau..  để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục..các cô gái làm điếm .. hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ .. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay  che chở ăn chia của Công An . Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần  –  thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh , quận 11..Sàigòn.

Cho dù chánh thức hay lậu.. hậu quả cũng gần giống nhau . Chánh thức thì có giấy phép , có công an làm thủ tục , chánh phủ thu tiền lệ phí . Lậu thì lén lút  với sự che chở của Công An . Hậu quả gần giống nhau . Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan , Đại Hàn bị ngược đãi,đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch.. ban đêm phục vụ tình dục.. rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại ..( Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng )  Còn lậu thì .. bán thẳng vào ổ điếm .  Biết bao nhiêu thảm cảnh .. biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại .Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu ..lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời !

Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ,ngược đãi, đánh đập.. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không ?  Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện ? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở ?  Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt..?

Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN . Họ còn phải vay tiền mua sắm , ăn diện , hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan , Đại Hàn ?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp . Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau : Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt,chương trình công nghiệp hóa,đô thị hoá..vừa bãi,không được nghiên cứu cẩn trọng..  đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng..Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào .. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác.. Các cô gái miền Tây.. quẩn bách vì không có việc làm  kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến ..khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ .Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75 ) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ .. thang giá trị bị đảo lộn.. nên họ không đặt nặng danh dự,sĩ diện như thời  trước.. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng .. họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn.. Nhưng động lực chánh là nghèo..  ;

NGHÈO…….   
  

  Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan … để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực , vô vọng không lối thoát..  Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH ) ?  Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng  của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998 : ĐBSC : 37% .  ĐBSH : 29%  . Năm 2002 : ĐBSCL : 13 % . ĐBSH : 9% . ( Nhà x.b Thống kê – Hànội ,trang 13 – LVB trích dẫn )       Dù theo tiêu chuẩn nào : tiền tệ ( tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống ( bao gồm lương thực , nhà ờ, mức sống văn hóa ) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về  lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá .                                        

Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học . Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt , nghe tận nơi của người viết : Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau , ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một  nông dân , nhà dột nát .. khi trời mưa lúc ban đêm..không có chỗ để nằm  phải tìm một góc nhà ,phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp.. trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc…  Cái nghèo của một người đi mượn tiền , muợn gạo.. tới ngày hẹn không tiền trả.. Cái nghèo của một thanh niên  thất nghiệp .. cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ..mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa,mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân .                                

Tục ngữ bình dân có câu : Ít ai giàu 3 họ,khó 3 đời .-  Có . Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới.. ở sông Long Hồ.  Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy : nghề đi nhủi tép .. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay ( 2007 ) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái  nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch..  Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te .Đời ông nội – nghèo ! Đời cha nghèo ! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó.   Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu .Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền ..trong khi dân số lại gia tăng quá tải . Cho nên thất nghiệp không thể tránh . Nghèo là hiện thực . Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng,viết  : ‘‘Nông dân đã nghèo,đất đã kém đi ,nhưng mỗi năm thêm  1 triệu miệng ăn,lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được ? ’’

 MIỀN NAM – 32 NĂM DƯỚI CHẾ ĐÔ C.S .

Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa . Nhưng chỉ là tiến bộ  với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt .. cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia ,để tài trợ các chương trình y tế ,giáo dục ( hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con ) – các chương trình tạo công ăn việc làm , phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không ? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch ? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể .. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng –  mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả , chiếm nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẩn uất , kêu la than khóc.. Oán hận ngút trời xanh ! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàgòn ) . Như vậy có gọi là phát triển không ?
 
KẾT  LU ẬN              

– 32 năm  nhìn lại :Người ta thấy miền Bắc đã ‘‘giải phóng’’ dân Sàigòn ra khỏi đất đai,nhà cửa của họ . Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô  hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau . ‘‘Giải phóng’’ miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú  do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ.‘‘Giải phóng’’quân nhân,viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà ,để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển …‘‘ Giải phóng’’ phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm ‘‘vợ nô lệ’’ , đi làm điếm ở Kampuchia , TháiLan ..  

– 32 năm nhìn lại : Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ .Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website(2003) – bị trưng bày trong lồng kính ,cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005) . Chỉ trong năm 2005 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc . (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam ) 
– 32 năm nhìn lại : Mượn lời nhà báo Claude Allegre ,báo L’expresse ngày 29-8-2002 :‘‘ Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó . Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn . Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó ’’  
                  

– 32 năm nhìn lại : Miền Bắc XHCN rõ ràng  đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc .
Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước .Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo :‘‘ Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước .Mất cả đất đai,sông núi và dân tộc.Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu(Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)

PHÓ THƯỜNG DÂN

April 5, 2008

Tình Hình Á Châu Đầy Xáo Trộn

Đài Việt Nam Hải Ngoại, Diễn Đàn Người Việt Quốc Gia

Chúa Nhật, ngày 12 tháng 9 năm 2004

* – Thông Tín Viên Nguyễn Đình Toàn:
 

Thưa quí vị:
 

          Trong những ngày qua có nhiều diễn biến khá quan trọng. Tôi được biết rằng: Nhà cầm quyền Cộng Sản vừa mới ra một quyết định cho du khách Trung Quốc được tự do vào Việt Nam, đi đến bất cứ nơi nào trên toàn lãnh thổ Việt Nam trên 46 tỉnh toàn quốc. Đây là một điều làm tất cả cho những ai quan tâm đến nền tự chủ độc lập của dân tộc cần phải quan tâm và theo dõi. Tin tức của chúng tôi được biết hơn một tuần qua là nhà cầm quyền Cộng Sản đã điều dẫn 2 sư đoàn đến Tây Nguyên (và một quân đoàn luôn luôn trấn đóng ở Tây Nguyên), và Trung Quốc đã điều dẫn hơn 200.000 quân sát biên giới Việt. Trung Quốc chưa tràn qua bằng dân sự, nhưng Cộng Sản Hà Nội đã cho phép họ qua Việt Nam bất cứ nơi nào bắt đầu có hiệu lực từ ngày 12 tháng 9 tức là ngày hôm nay. Trước những biến cố quan trọng dồn dập, chúng tôi mời anh Lê Văn Xương trở lại với diễn đàn ngày hôm nay. Và xin mời quí vị theo dõi phần trình bày của anh Lê Văn Xương. Chúng tôi nghĩ rằng đây là phần trình bày khá quan trọng. Trước hết chúng tôi xin chào anh Lê Văn Xương.

 

Tình Hình Á Châu Đầy Xáo Trộn

 

* – Lê Văn Xương:

          Thưa quí vị:

          Trong bài phát biểu hôm July 4th, 2004 vừa qua mang tính quan trọng thuộc phạm vi sách lược nhiều hơn, cho nên chúng tôi hiểu rằng có nhiều vị thính giả còn bối rối về bài nói chuyện đó. Bài phát biểu hôm nay là sự khai triển thực tiễn đối với những gì đang diễn biến cho tình hình thế giới, cũng như tình hình quốc nội như anh Toàn vừa mới nêu lên. Tôi xin đi ngay vào vấn đề tình hình thế giới:


    

          Sự việc Bắc Triều Tiên “thử nghiệm” vũ khí nguyên tử tại vùng Tam Biên (Nga- Tàu- Bắc Triều Tiên) cho chúng ta thấy rằng: Hồ sơ nguyên tử về Bắc Triều Tiên không còn gì để bàn thảo nữa. Những gì Hoa Kỳ đã nói về Bắc Triều Tiên hoàn toàn chính xác. Hồ sơ nguyên tử của Iran cũng đang trở thành những vấn đề nóng bỏng hiện nay. Cho dù nhà cầm quyền Iran có biện minh như thế nào đi nửa, thì kết quả là Iran cũng đã phát triển xong loại vũ khí hạch tâm và nếu Iran có thể tiến hành cuộc “thử nghiệm” như vậy có lẽ cũng không xa, và có lẽ cũng có thể “nổ bất ngờ” giống như trường hợp vừa mới xảy ra với Bắc Triều Tiên. Trong những điều kiện như hiện nay, thì chúng ta phải hiểu rằng các giáo sĩ hồi giáo tại Iran đang nắm toàn bộ quyền hành và họ nhất quyết phải làm cái gì đó để đặt điều kiện thương thuyết nhất là đối với Hoa Kỳ.

 

          Trở lại tình hình Á Châu, nếu Bắc Triều Tiên có vũ khí nguyên tử thì Nam Triều Tiên, Nhật Bản, và cả Đài Loan cũng sẽ có vũ khí nguyên tử chỉ từ trong vòng 6 tháng đến 1 năm. Vẫn chưa hết, Brazil với sự giúp đỡ ngấm ngầm của Trung Cộng đang chuẩn bị, đang đấu tranh để có vũ khí nguyên tử. Trong nhiều sự kiện như thế cho chúng ta thấy rằng” Á Châu là nơi tập trung nhiều nhất các quốc gia sở đắc vũ khí nguyên tử. Tệ hại thay, rất nhiều quốc gia trong số đó là những quốc gia thuộc nhóm hung đỏ (nhóm đỏ Cộng sản). Chúng ta phải nhìn thấy vấn đề này một cách thật rõ ràng. Lạm dụng chế tạo vũ khí nguyên tử, vũ khí hoá học, vũ khí vi trùng hay là hỏa tiễn liên lục địa để phá hoại thế giới đều xuất phát từ Trung Cộng. Điều này đã quá rõ ràng!. Trong đệ cương chính trị của Đảng Cộng Hòa Hoa Kỳ vừa qua đã nói đến điều đó một cách nghiêm khắc. Tình hình ấy cho thấy nhiều quốc gia trên thế giới có thể chế tạo vũ khí nguyên tử, nhưng họ không thể kềm chế tham vọng cá nhân của mình và họ không có phương tiện đầy đủ để bảo đảm rằng: Nguyên tử được xử dụng một cách an toàn và họ cũng không thể bảo đảm rằng những vũ khí nguyên tử ấy không lọt vào tay những kẻ khủng bố quốc tế. Cho nên mối đe dọa đối với an ninh toàn cầu là có thật, và rất rõ ràng. Những đe dọa ấy có thể hủy diệt nền văn minh này trong khoảnh khắc. Chúng tôi xin nhấn mạnh với quí vị điều đó. Để giải thích thêm về việc này, vũ khí nguyên tử có thể tạo ra một cuộc chiến tranh toàn diện do sự sơ xuất về mặt kỹ thuật và do ý đồ bành trướng của Bắc Kinh. Khi một bên tung ra, hoặc đối phương có cảm tưởng là bị tấn công bằng vũ khí nguyên tử, hoặc bằng hỏa tiễn thì họ đều phải trả đũa ngay. Cái lý thuyết chiến tranh này trong chiến tranh lạnh đã được bàn đến nhiều và lý thuyết ấy vẫn còn giá trị đến ngày hôm nay.

 

          Một cuốc tấn công trả đũa bằng vũ khí nguyên tử sẽ dẫn đến sự thay đổi toàn diện về cấu trúc thời tiết trên qui mô toàn cầu; ấy là chưa nói đến dăm trăm triệu người chết. Người Tàu vẫn hy vọng rằng: Họ có thể chết 500 triệu người, nhưng họ vẫn còn 800 triệu người để đủ sức cai trị thế giới. Điều quan tâm này cách đây hơn một năm chúng tôi đã có nêu ra, và hôm nay chúng tôi xin nhắc lại. Hiểm họa này lớn như thế, và cái hiểm họa này đang cho chúng ta thấy rằng: Thế giới đang bước rất gần đến ngày suy tàn ấy. Thời gian đó có thể là một năm hay hai năm, chúng ta không thể hiểu được. Đó là điều mà mọi người Việt Nam phải nhìn thấy cho rõ. Và chúng tôi muốn cảnh tỉnh toàn thế giới về cái hiểm họa này.

 

          Một vấn đề khác nữa là một nhóm nghiên cứu về thời tiết của Đức có mặt tại Nam Cực vừa mới báo hiệu rằng: Tầng băng giá ở Nam Cực bị tan rã rất mau chóng. Nhóm nghiên cứu này chỉ nói lên việc mà các nhóm nghiên cứu khác thuộc về người Anh, người Mỹ, người Nga đã nói lên trước đây. “Đặc biệt là những nhóm về môi sinh”. Như thế trái đất này đang ở trong giai đoạn chót của chu kỳ nóng. Chu kỳ nóng ấy sẽ dẫn đến sự tan rã về băng giá và làm nước biển tràn vào khắp nơi lục địa và tạo ra một cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh ấy cũng có khả năng hủy diệt toàn cầu, hủy diệt nền văn minh này để đưa nền văn minh trở lại số zero, tức là với khởi điểm đầu tiên. Đây là một vấn đề liên quan đến quốc tế! chúng ta lại phải nhìn cho rõ, trong điều kiện của thế giới như vậy. Một điều thứ ba nữa chúng ta cần phải lưu ý đây chỉ là một tai nạn đối với nhân loại thôi.

 

          Quý vị cũng đã biết các thiên thạch sẽ rớt vào trái đất bất cứ lúc nào và một khối thiên thạch lớn cũng có thể hủy diệt nền văn minh này, thậm chí có thể hủy diệt cả loài người này, để đưa loài người này trờ về thời kỳ băng giá đầu tiên mà hằng triệu năm sau mới có thể hồi sinh.

 

          Ba điều chúng tôi vừa mới nêu lên là một thực tế mà loài người đang phải đối diện. Vấn đề được đặt ra bây giờ là: loài người liệu có thể trì hoãn đà tan rã của nền văn minh này hay không?. Nếu muốn trì hoản, nếu muốn kéo dài nền văn minh này thì loài người phải làm những gì?. Câu hỏi này dĩ nhiên được đặt ra đối với những người có đầu óc lớn, biết suy nghĩ lớn. Anh không suy nghĩ lớn, không có đầu óc lớn, Anh chẳng có thể làm được việc gì lớn cả. Cho nên, ba vấn đề vừa nêu lên là những vấn đề của những người bàn về sách lược toàn cầu, bàn về chuyện làm cách nào để cứu vãn đời sống nhân loại. Chuyện đó không phải chỉ là tiền đề của ngày hôm nay.

 

          Vấn đề thứ hai là chúng ta hiểu một điều: Thế giới này có Một cái lực tiến về phía trước, cái lực đó họ muốn xây dựng một thế giới có trật tự, muốn xây dựng một thế giới hài hòa, trong đó mọi dân tộc đều có chổ đứng dưới ánh mặt trời, mọi quốc gia dù nhỏ hay lớn đều có một khoảng không gian để hít thở, để sinh sống và để tránh ô nhiễm về môi sinh. Thế lực thứ Hai là thề lực muốn cản trở những việc làm trên, muốn cản trở cái đà tiến về phía trước đó. Họ đang cố gắng chống lại nền hoà bình của nhân loại, họ là những kẻ kém trí tuệ, thiếu hiểu biết, nhưng họ lại muốn thống trị thế giới bằng dân số đông, bằng thần quyền. Thì thế lực thứ Hai này chúng tôi phải nêu đích danh ở đây là Trung Cộng và những thế lực cực đoan quá khích Hồi Giáo. Còn một thế lực nửa lưng chừng ở giữa: Những quốc gia này họ chỉ biết lợi nhuận cho riêng họ, đây cũng là điều tất yếu thôi. Những quốc gia lưng chừng ở giữa do họ không có chuẩn bị hay do trí tuệ hẹp hòi, họ không nhìn thấy thảm họa mà nhân loại đang phải đối diện. Thực sự đối diện!. Cho nên họ giữ một thái độ lừng chừng. Lừng chừng có nghĩa rằng: Phe nào thắng thì ta sẽ ngã theo phe thắng để hưởng lợi. Đây là thái độ rất nhược khí của những người lãnh đạo mà chúng tôi đã có lần tôi nêu lên.

 

          Trở lại vấn đề của Trung Cộng, chúng tôi muốn nhấn mạnh với quí vị một điều là: Trung Cộng đứng đằng sau những gì được coi là khủng bố ngày hôm nay. Điều này được suy luận từ một nguyên tắc rất đơn giản được ứng dụng trong lịch sử đó là: Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta. Vậy thì Trung Cộng và cực đoan Hồi Giáo nghĩ rằng: Họ có kẻ thù chính là Mỹ, họ liên kết với nhau để chống lại Hoa Kỳ, đó là lẽ tất yếu. Cho nên, khi nói về những vấn đề đó chúng tôi dựa vào những bài học lịch sử để đưa ra những nhận định, chúng tôi không dựa vào những tin tức lặt vặt .v.v.. Chúng tôi xin thưa rõ với quí vị rằng: “Trung Cộng đang bành trướng! Trung Quốc đang muốn thống trị thế giới! điều này thật rõ ràng, không cần phải bàn cãi thêm. Trung Cộng đứng đằng sau các vụ phổ biến vũ khí hạch tâm, vũ khí hóa học, vũ khí vi trùng, vũ khí nguyên tử, kỹ thuật hỏa tiễn liên lục địa, điều này đã có những cụ thể rõ ràng!. Đề cương của Đảng Cộng Hòa Hoa Kỳ đã nói đến vấn đề đó mặc dù với một phong cách nhẹ nhàng hơn. Và tiện ở đây, tôi cần minh xác với quí vị rằng: Cũng chính Trung Cộng đứng đằng sau những vụ nghiên cứu về vũ khí sinh vật học để diệt chủng các dân tộc Á Châu chung quanh và tràn dân Trung Quốc của họ vào, một là để xâm thực kinh tế, hai là để đồng hóa các chủng tộc nhỏ như họ đã làm trong hàng ngàn năm qua với dân tộc Bách Việt, rồi từ từ Trung Cộng sẽ mua thời gian và họ sẽ thanh toán Á Châu.

         

          Như hiện tại chúng ta đã thấy một loạt bệnh đã và đang tràn lan khắp Á Châu bắt nguồn từ Trung Cộng, để cuối cùng tạo ra một tác hại ngược cho chính nhân dân Trung Quốc. Tất cả những con số do Trung Cộng đưa ra về sự thiệt hại do bệnh SAR, do bệnh Cúm Gia Cầm và nhiều bệnh lạ khác, chúng tôi không tin rằng những con số đó là những con số chính xác. Con số có thể gấp trăm lần, thậm chí có thể gấp ngàn lần con số đã được đưa ra. Trung Cộng vì muốn thôn tính Á Châu, nên họ cố tình dấu đi con số tử vong vì các bịnh lạ, Trung Cộng rõ ràng muốn phân ba thế giới. Cái ý đồ “Lộ Tuyến”này của Trung Cộng đòi tam phân thế giới ngày này ai cũng rõ, nên chúng tôi cần phải nói ra. Người Tàu nghĩ rằng Á Châu là của Trung Quốc, do Trung Quốc làm chủ, để đối diện bên kia là Hoa Kỳ, đối diện nửa là Âu Châu. Họ nghĩ rằng đó là “thế chân vạc”, thế chân vạc có thể tồn tại được và tạo điều kiện cho Trung Cộng củng cố lực lượng, họ dùng kinh tế để xâm thực thế giới, để đến một ngày nào đó Trung Cộng sẽ tiến lên cai trị toàn cầu. Lời cảnh báo này của chúng tôi ngày hôm nay được nhắc lại và được gởi đến rất rõ cho các quốc gia hiện nay đang đứng lừng khừng ở giữa. Đặc biệt một số quốc gia Âu Châu. Có thể ban lãnh đạo của các quốc gia ấy họ đã có quyết định,vì họ hiểu cái tầm nguy hại mà nhân dân họ sẽ phải nhận lãnh, nếu những người lãnh đạo các quốc gia ấy lắng nghe những lời nói này, để xác định thái độ của mình đối với hiện tình thế giới. Trong tất cả những sự việc đã và đang xảy ra như thế. Rõ ràng, khi Trung Cộng muốn chia ba thế giới, để rồi một ngày nào đó họ thiết lập một hệ thống cai trị theo kiểu “Trời Con” trên khắp thế giới, thì lúc đó nền văn minh Hồi Giáo, nền văn minh La Mã và nguy hại hơn hết cả nền văn minh thế giới này cũng bị tiêu diệt bởi bàn tay người Tàu. Đó là một thực tế.

         

          Bây giờ, chúng ta bàn về một điểm thứ ll thuộc về phạm vi có tính cách mưu đồ chiến lược của Trung Cộng, họ nghĩ rằng: Họ muốn xử dụng đạo quân thứ Năm của Trung Cộng ở hải ngoại, bởi vì biến cố 911 cho thấy cục diện có thể đổi thay mau chóng chỉ vì một vụ khủng bố và nếu vụ khủng bố ấy được mở rộng trong một quy mô lớn hơn: Thí dụ như vũ khí bom bẩn, hoặc thí dụ như vũ khí sinh vật học thì tác hại sẽ như thế nào?. Tất cả xã hội Phương Tây sẽ bị đảo lộn, sẽ bị đảo ngược, sẽ bị tan rã, một khi xã hội Phương Tây bị tan rã, lấy thí dụ Hoa Kỳ tan rã, Âu Châu bị tan rã, hoặc là bị khủng hoảng. Điều đó sẽ dẫn Hoa Kỳ, Âu Châu, hay là Nam Mỹ ,v..v… đến tình trạng cuối cùng là nền văn minh này tan rã thì Trung Cộng đã tiêu diệt được thế giới. Đó là một thực tế mà cả thế giới phải nhìn cho rõ. Vấn đề Đài Loan, hay những vấn đề khác chỉ có tính cách (diện không phải điểm) phụ thôi.

         

          Mặt trận thứ hai mà Trung Cộng muốn đánh tới, là họ nhắm vào việc mở rộng tầm hoạt động ảnh hưởng đối với các quốc gia láng giềng. Nói trắng ra là họ xâm lăng các quốc gia láng giềng. Khi nói đến việc Trung Cộng xâm lăng các quốc gia láng giềng, thì điều mà chúng ta nhìn thấy rất rõ là: Họ đang áp dụng một chiến lược vô cùng thâm độc: Trong khi họ xâm lăng các quốc gia láng giềng, thì họ đã bắt tay với Philippines, và bà TT Gloria Arroyo đã đến thăm Trung Quốc (lãnh đạo nước Phi luật Tân đã quên rằng chính Hoa Kỳ đã cứu nước Phi ra khỏi sự đô hộ của Tây Ban Nha trước đây), hai bên cũng đã nói chuyện và chính bà Arroyo đã chỉ thị cho Bộ Quốc Phòng Philippines mau chóng đến Trung Quốc để bàn chuyện hợp tác với Trung Quốc và tin mới nhất cũng đã cho biết là quân Cộng Sản Phi do Trung Cộng tiếp tế và điều động ở các đảo phía Nam Philippines, sẵn sàng tạm thời ngưng chiến đề bàn chuyện với chính phủ Philippines. Điều này có nghĩa là gì? Điều này là Trung Quốc đứng đằng sau nhóm khủng bố Abu Sahjad. Việc mà Trung Quốc đúng đằng sau tàn quân của đảng Cộng Sản Phi ở các bán đảo phía Nam là chuyện rõ ràng không có gì để bàn thêm nửa. Chuyện ở Nepal quân Maoit phong tỏa các con đường dẫn đến thủ đô cũng là chuyện chúng ta phải lưu ý. Chính tướng Nepal phải bay qua Ấn Độ để yêu cầu được giúp đỡ. Nhưng quí vị đã biết trong tình hình thế giới như hiện nay, nước Ấn Độ cũng không thể ra tay giúp đỡ Nepal được nhiều và sự xâm lăng của Trung Cộng qua đạo quân Maoit là một điều đang được thực hiện trên một quy mô lớn, và đang được thực hiện một cách rất mau chóng. Việc này cũng xảy ra cho Miến Điện. Tất cả những gì mà Trung Cộng chuẩn bị nhảy vào Miến Điện là đã hơn 20 năm qua, tuy nhiên Miến Điện khác với Việt Nam.

         

          Đã nhiều lần trên làn sóng này chúng tôi thưa với quí vị là: Ai chiếm được Việt Nam, người ấy chiếm được Đông Dương, ngưòi nào làm chủ Đông Dương thì người đó làm chủ Đông Nam Á. Cái tâm sự này ai cũng biết và hiển nhiên Trung Cộng lại càng rõ hơn, họ đã tiến hành, họ đã chuẩn bị việc này trong mấy chục năm qua. Ít ra sau khi Lê Duẩn chết, sau đó Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đã đến dự hội nghị bên Trung Quốc, chính trong hội nghị đó Việt Nam Công Sản đã trở thành công cụ tay sai của Trung Cộng. Mặc dù tài liệu có ở trước mặt tôi đây, nhưng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trở lại chi tiết hơn về vấn đề này.

         

          Trung Cộng muốn gì ở Việt Nam?. Trung Cộng muốn gì ở Miến Điện?, Trung Cộng muốn gì ở Nepal (Tây Tạng)? Trung Cộng muốn gì ở Lào, ở Cam Bốt?. Trung Cộng muốn gì ở Thái Lan khi mà cánh quân Hồi Giáo ở phía Nam Thái Lan nối lên chống chính phủ Thái Lan?. Rõ ràng là họ đang muốn thao túng cái vùng nhạy bén, mà nhiều quốc gia trong số đó có ước mộng muốn trở thành những người bạn với Hoa Kỳ để cản trở và để chống lại đà bành trướng của Bắc Kinh, trong những điều kiện như thế này, thì Bắc Kinh đã ra tay làm trước là xâm lăng nước ta, cùng một lúc họ xâm lăng các quốc gia khác. Người Tàu vẫn hy vọng rằng: Nếu đạo quân thứ 5 của Trung Cộng không thể “thi hành sứ mệnh” ở Mỹ hay là ở các quốc gia Âu Châu khác, thì mũi dùi thứ hai là họ đánh thẳng vào các quốc gia Đông Nam Á (bằng nhiều cách, kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa v..v…) để chiếm trọn Đông Nam Á, khi việc đã rồi vì Hoa kỳ không thể trở tay phản ứng kịp thời. Sau đó Trung Cộng đặt điều kiện với Mỹ và khi đạt được thương thuyết với Mỹ thì họ hiểu rằng thế chân vạc rồi cũng sẽ hình thành và rồi cuối cùng thì họ cũng sẽ chi phối toàn cầu, họ tiến lên thống trị thế giới chỉ là thời gian. Cho nên chúng tôi xin nhấn mạnh với đồng bào là: Ý đồ của Trung Cộng là muốn chia ba thế giới, và chiến lược của Trung Cộng là hai mũi giáp công. Chúng tôi xin nhắc lại để đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước hiểu rõ, và chúng ta phải có những phản ứng kịp thời!. Nhưng chúng ta cần phải hiểu rõ Trung Cộng xâm lăng Việt Nam như thế nào?

         

          Về phương diện kinh tế như đồng bào đã biết: Hàng hóa Trung Cộng đổ (dumping) xuống Việt Nam, tràn xuống Việt Nam với giá rẻ mạt để giết nền kinh tế đang lụn bại của Việt Nam (chưa kể các loại thịt cá, ngũ cốc, rau cải người Tàu đổ sang Việt Nam, người Tàu đã “nuôi – cấy” hay trồng trọt bằng nhiều loại phân bón hay thức ăn gia súc có tẩm chất độc hóa học, chúng ta phải hiểu rằng: Đây là một hình thức chiến tranh, chiến tranh về kinh tế nhưng người Tàu đã đánh dân Việt Nam bằng hóa học – vũ khí hóa học, mọi người Việt Nam trong nước nên nhớ khi chất độc đã ngấm vào người trước nhất sinh ra bệnh về gan và chất độc cũng sẽ di hại đến nhiều đời sau), cho nên, nền kinh tế Việt Nam Cộng Sản hiện nay nó không có một ý nghĩa gì cả! nó chỉ là một thị trường để cho Trung Cộng thao túng. Một khi Trung Cộng đã thao túng được kinh tế, họ sẽ thao túng về chính trị, họ sẽ thao túng về quân sự do đạo quân thứ Năm của Trung Cộng tại chổ (tin tức cho biết đạo quân thứ Năm của Trung Cộng hiện nay trên toàn thế giới có thể lên đến 130 triệu người). Đạo quân thứ Năm được tăng cường lên rất là mạnh trong thời gian hơn 10 năm qua kể từ khi Nguyễn Văn Linh trở thành bí thư đảng Cộng Sản Hà Nội.

         

          Chúng ta cần phải nhìn thấy rõ việc này, nếu không thì chúng ta sẽ không biết ai là bạn, ai là thù. Cách đây mấy tháng, chúng tôi có thưa với quí vị là: lúc nào cũng khoảng 300,000 nhân dân Trung Quốc đến Việt Nam dưới dạng là du lịch, có mặt thường xuyên ở Việt Nam. Thì 300,000 ấy rõ ràng là 300,000 lính và quân báo Trung Quốc trá hình đến Việt Nam nằm tại chổ. Và 300,000 ấy họ hiện nay ở đâu không ai biết. Họ có thể ở Tây Nguyên, và họ có thể trà trộn vào trong hàng ngũ người Việt bởi vì họ cũng nói tiếng Việt Nam như người Việt Nam (số người này họ được dạy và nói tiếng Việt trong nhiều năm), họ cũng có tên Việt Nam như người Việt Nam, đa số người dân bình thường thì không thể nào biết được trừ những người thật là tinh tường. Với tất cả những ý đồ đó là Trung Cộng muốn dụ cho Hoa Kỳ vào lục địa Á Châu và cầm chân Hoa Kỳ ở đó, để cho khối Hồi Giáo quá khích là con cờ của Trung Cộng rảnh tay phá hoại khắp nơi trên thế giới, nhưng những mưu mô đó Hoa Kỳ đã nhìn thấy. Hiện tại Hoa Kỳ muốn tạo điều kiện cho những quốc gia độc tài trở thành quốc gia dân chủ, thì họ mới có điều kiện và đủ mạnh để bẻ gảy mọi mưu đồ bành trướng xâm lăng của Bắc Kinh.

 

          Trung Cộng hiểu rằng nếu đánh trực tiếp Hoa Kỳ thì Trung Cộng không dám vì không đủ sức. Cho nên họ phải ném đá dấu tay, họ phải tạo những điều kiện, làm thế nào để dụ Hoa Kỳ vào cuộc. Để rồi khi Hoa Kỳ đã nhảy vào Việt Nam hay các quốc gia khác, họ hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ bị “sa lầy” vào cuộc chiến tranh du kích, kiểu chiến tranh lạnh mà chúng ta đã chứng kiến. Chúng tôi cần nói với Trung Quốc: Thế giới ngày hôm nay khác với tình hình thế giới ngày hôm qua. Kỹ thuật tác chiến ngày hôm nay khác với kỹ thuật tác chiến ngày hôm qua. Và do những vấn đề như thế tôi không nghĩ rằng ý đồ của Trung Cộng là có thể thực hiện được.

 

          Với việc Đảng Cộng Sản Hà Nội dưới áp lực tối đa của Trung Cộng, nay do một Tổng Cục Trưởng ký một quyết định, mà một quyết định này đúng ra về mặt ngoại giao mà nói, nó phải từ một thỏa hiệp song phương giữa hai chính phủ và nó phải được Bộ Ngoại Giao, cũng như phải được cả hai Quốc Hội thông qua. Nhưng ở đây thì không! Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản không có luật lệ gì cả! Một anh Tổng Trưởng Du Lịch ký một quyết định cho phép người Tàu được đi lại tự do trên khắp nước, thì điều đó có nghĩa là gì?. Phải chăng Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn tự chủ, không còn độc lập, không còn quyền hạn để quyết định quyền lãnh đạo của chính họ?. Hoặc là Tổng Cục trưởng Tổng Cục Du Lịch của Việt Nam lại là một anh Tàu chính hiệu trá hình, một anh Trung Cộng?. Và quá rõ ràng là họ đã trở thành tay sai đắc lực của Trung Cộng?. Những chuyện đó chúng ta phải biết để xác định rõ bạn với thù. Nghĩa là đó mới là một vấn đề!. Vấn đề quan trọng là: Trong những điều kiện về tình hình thế giới cực kỳ nóng bỏng như hiện nay, số du khách Trung Cộng trá hình đến Việt Nam có thể đã tăng lên đến hơn 1,000,000 người. Quí vị hỏi chúng tôi: Cái này từ đâu?. Xin thưa với quí vị là chúng tôi chỉ cần nhìn tình hình nóng bỏng như thế nào, khi bảng Đề Cương của Đảng Cộng Hòa Hoa Kỳ nói ra xong, rồi tới việc “thử nghiệm” vũ khí ở Bắc Triều Tiên thì chúng tôi cũng đã có một kết luận chắc chắn, chúng tôi không cần phải có những tài liệu bên trong. Quý thính giả không quên rằng trước đây: Khi Trung Cộng là quốc gia tiêu thụ thép và xi măng lớn nhất thế giới, đến nổi tình trạng thép trên thế giới bị thiếu hụt! có nghĩa là gì?. Những việc xây dựng ở Thượng Hải, Bắc Kinh, Nam Kinh, Hải Nam nó không thể tạo ra một tình trạng khan hiếm như vậy!. Vậy tình trạng nó đã xảy ra phải có lý do!. Lý do đó là lý do gì?. Chúng ta không thể loại bỏ khả năng là Trung Quốc đã dùng tất cả những phương tiện tối đa sẳn có để xây dựng các hầm trú ẩn bí mật (không phải xây cho thế vận hội vào năm 2008), củng cố và xây cất các cơ sở phòng thủ của mình hầu như trên khắp lục địa của Trung Quốc, nên mới tạo ra tình trạng khan hiếm thép và xi măng ở mức độ cao như thế.

 

          Trở lại vấn đề Việt Nam như chúng tôi đã có lần trình bày: “Ai nắm được Tây Nguyên, người đó nắm được Việt Nam”. Thì cách đây ít năm, sau năm 1995, hay 1996, 19997 khi Hà Nội tuyên bố sửa đường Trường Sơn. Trên làn sóng này chúng tôi đã trình bày: Đường Trường Sơn không đem lại lợi ích kinh tế! như vậy việc xây dựng Đường Trường Sơn là nhằm vào mục tiêu quân sự!. Phải đợi đến khi báo chí loan tin thì Trung Cộng và Việt Cộng đã thật sự xây xong các căn cứ phòng thủ quân sự. Khi Trung Cộng chi tiền mở rộng con đường chiếc lược Trường Sơn, vào lúc đó tình hình thật tế chị cho nên chúng tôi chỉ giữ im lặng, để xem động tĩnh nhịp nhàng của Trung Cộng và Việt Cộng như thế nào, vì vậy chúng tôi chỉ nói chuyện tống quát thôi. Ai hiểu được thì hiểu, không hiểu được thì thôi!. Nhưng bây giờ, trong điều kiện này thì chúng tôi khẳng định lại một cách rõ ràng và minh bạch rằng: Trung Quốc là người đứng đằng sau, là người chủ trương sự xây dựng Đường Trường Sơn để tiến quân xuống phía Nam, vì đây cũng là lối thoát duy nhất của người Tàu trong hàng ngàn năm qua, và theo lẽ tất yếu khi chuẩn bị tác chiến, chuẩn bị chiến tranh có tính cách toàn cầu, thì họ phải xây dựng những hầm hố, những công thự phòng thủ, những giao thông hào bằng bê tông cốt thép nằm sâu trong những rặng núi Trường Sơn, để chuẩn bị cho một cuộc chiến trường kỳ đối đầu với Hoa Kỳ toàn vùng Đông Nam Á Châu.

 

          Nhất là cuộc chiến tranh ở Iraq mới đây, đã làm cho Trung cộng thấy rằng các công thự chiến đấu của nhiều triệu quân phải được xây ngầm trong núi (Á Châu nhiều rừng núi hiểm trở), chứ không thể xây thường được, cho nên chúng tôi có thể đi đến sự khẳng định tất yếu là: Thứ nhất là: Trung Quốc đã đem quân đến Việt Nam với dạng du khách trên một số lượng (quân) lớn. Điểm thứ hai: đối với Việt Nam thì việc Trung Quốc cũng cố và xây dựng đường Trường Sơn là để nắm chặt lấy Tây Nguyên, thao túng Việt Nam để đặt điều kiện và để có thể đánh trả lại Mỹ sau này. Nói một cách khác là, Trung cộng muốn đưa chiến tranh ra khỏi lục địa Trung Hoa và một lần nữa, Trung cộng muốn dùng xương máu của người Việt Nam để phục vụ cho những ý đồ dơ bẩn thâm độc của Trung Cộng. Đó là điều ngày hôm nay, chúng tôi bạch hóa cho cả thế giới biết rõ tham vọng của Bắc Kinh là: Bắc Kinh, Hán tộc hàng ngàn năm trước đã tiêu diệt Bách Việt, đã hủy diệt nền văn minh Bách Việt, và ngày hôm nay Trung Quốc Hán tộc vẫn tiếp tục hủy diệt nền văn hoá Bách Việt, vẫn tiếp tục con đường xâm lăng ngày xưa như Hán tộc đã làm. Cho nên, chúng tôi xin thưa với thế giới: Trên thế giới này, không có một ai, không một quốc gia nào có nhiều kinh nghiệm về sự đô hộ của người Tàu và hiểu sự cai trị tàn bạo của người Tàu đối với những quốc gia bị xâm lăng bằng nước Việt Nam. Điều này đã được minh chứng hàng ngàn năm qua trong lịch sử. Trong cuộc chiến tranh lạnh đã qua, dân tôi đã phải hy sinh 3 triệu người và dân tôi đã phải chết 3 triệu trẻ em và nhiều triệu người nghèo đói, bệnh tật. Dân tôi không phải là dân tộc tồi, ngày hôm nay dân tôi là dân tộc nghèo hèn nhất thế giới, đến nỗi đàn bà con gái Việt Nam bị giới cầm quyền Hà Nội đem đi rao bán công khai như một món hàng!. Chúng tôi cũng xin nói rõ với thế giới rằng: Chúng tôi chết hơn 6 triệu người để cho thế giới được an bình, để cho các quốc gia khác được tự do. Quá khứ lịch sử của chúng tôi, với sự hy sinh lớn lao mà dân tộc tôi đã phải chịu, chúng tôi là người duy nhất có quyền minh thị tố cáo với thế giới về cái dã tâm bành trướng và tiêu diệt văn minh, văn hóa, tiêu diệt con người của giới lãnh đạo Bắc Kinh đối với dân tộc Việt Nam.

 

          Ngày hôm nay đây, chúng tôi muốn nói với thế giới là dân tộc Việt Nam chúng tôi phải được sống như con người, những con người đích thực. Dân tộc chúng tôi phải được sống trong tự do. Dân tộc chúng tôi phải được sống trong độc lập. Và dân tộc chúng tôi sẵn sàng cất cánh với thế giới để cùng với thế giới tiến lên Nhân Chủ và sẵn sàng sát cánh với thế giới chống lại kẻ thù bành trướng Bắc Kinh, kẻ thù mà cả thế giới này đều biết rằng: Trung Cộng là căm địch của Á Châu nói riêng và thế giới nói chung, họ là những kẻ xâm thực kinh tế, họ dùng dân số đông để tiêu diệt hay đồng hóa các dân tộc nhỏ chung quanh, họ tự cho họ là loại người thượng đẳng và văn minh nhất (Trung Hoa), nhưng trong thực tế họ chuyên đi vây mượn những sản phẩm trí tuệ, cũng như vật chất của người khác về làm riêng của mình, họ là kẻ thù của cả nhân loại, kẻ thù của nền văn minh này.

 

          Đối với thế giới Hồi Giáo cần phải hiểu một điều rằng: Những giáo sĩ Hồi Giáo cực đoan cần phải ghi nhớ những điều chúng tôi nêu ra hôm nay. Nếu Trung Cộng thao túng thế giới, thì người Tàu cũng chẳng thiết tha gì nhiều về những điều giáo chủ Mohammad đã truyền đạt, chứ đừng nói đến chuyện truyền bá đạo Hồi. Chúng tôi gióng lên tiếng chuông cảnh tĩnh cho lãnh đạo Hồi Giáo biết rằng:. Các giáo sĩ Hồi Giáo cực đoan cần phải suy nghĩ lại và phải hiểu thế giới đến nơi đến chốn để có một thái độ thích ứng. Đừng nghĩ rằng, ôm lấy cái lý tưởng “thánh chiến” chống Mỹ, chống phương Tây như là một phương cách để bảo vệ Hồi Giáo. Quý vị đã lầm to. Khi làm việc đó, thật sự quý vị đang hủy diệt những điều mà Giáo Chủ Muhammad đã truyền đạt cho quý vị. Một ngày nào đó, dầu hỏa của các vị cũng sẽ hết hay là nền văn minh trong tương lai không còn cần dầu hỏa nửa, vì Hoa Kỳ đã có cái khác thay thế năng lượng dầu hỏa và ngày đó, đất nước quý vị cũng sẽ đấm chìm trong oan nghiệt, và cái ngày đó người Tàu sẽ cai trị quý vị và Hồi Giáo cuối cùng cũng sẽ bị người Tàu tiêu diệt, như họ đã từng làm với dân tộc Bách Việt chúng tôi. Người Mỹ không có ý định thôn tính thế giới Hồi Giáo. Vì khi lập quốc người Mỹ có mang trong người cái tính hiệp sĩ, họ chỉ muốn ổn định toàn cầu, muốn đem lại cho thế giới này một cái trật tự có thể chấp nhận được và hơn bao giờ hết, họ muốn thế giới này tiến lên Nhân Chủ. Người Mỹ họ có đầy đủ chính nghĩa để làm công việc đó. Điều mà chúng tôi muốn nhắn gởi với thế giới Hồi Giáo một cách rất rõ ràng là: Khi thế giới này không ai cần xài dầu hỏa nửa, thì chuyện gì sẽ xảy ra đất nước của quý vị ? hỏi tức là trả lời vậy.

 

          Đối với các quốc gia khác trên thế giới. Ở đây, tôi muốn nói đến các quốc gia đứng lừng khừng ở giữa. Các vị lãnh đạo cũng phải nhìn thấy, quý vị cũng phải thấy cho thật rõ cái hiểm họa mà thế giới đang phải đối diện. Và nếu một ngày nào đó, đối với lịch sử thì 50 năm không phải là xa. Mặc dù nếu chúng ta không khéo thì trong vòng 2 hoặc 3 năm tới, một cuộc chiến tranh toàn diện về nguyên tử có lại nổ ra mà làm hủy diệt toàn cầu. Nhưng mà chúng ta hãy giả sử rằng, trong các điều kiện bình thường, thì 50 năm đối với lịch sử là một khoảnh khắc, là một thời gian rất ngắn ngủi. Và nếu Trung Quốc đánh lại Mỹ, tôi không nói đánh bại Mỹ đâu, chúng tôi chỉ nói rằng: Trung Cộng bằng mọi cách làm thế nào đó để kéo Mỹ xuống ngang hàng với Tàu để Hoa Kỳ phải chấp nhận ngồi nói chuyện với Trung cộng mà thôi, tức là đủ để làm cái dấu báo hiệu cho thấy rằng cái ngày tàn của nền văn minh này không còn xa và cái sự cai trị của Trung Quốc là chắc chắn.

 

          Cho nên ngày hôm nay, chúng tôi muốn báo động với tất cả các quốc gia hiện tại còn đứng lừng khừng ở giữa, cần phải xác định thái độ. Hoặc giả anh đứng phía bảo vệ về văn minh này, bảo vệ cái chính nghĩa nhân loại, hay anh đứng về cái phía những kẻ hung đồ muốn thôn tính thế giới bằng sức mạnh của mình, bằng số dân đông của mình. Thái độ lãnh đạo quốc gia của các bạn tùy thuộc vào những gì quý vị sẽ làm ngày hôm nay. Chúng tôi đề nghị với các bạn là hãy phân biệt bạn thù một cách phân minh và hãy can đảm đứng lên, nói thẳng cho nhân dân các bạn hiểu rõ, con đường mà dân tộc các bạn đang đi là như thế. Đó là con đường tất yếu của lịch sử!. Nếu quý vị không quyết tâm tham gia vào cuộc chiến này. Đây là một cơ hội chót, cuộc chiến chót của nhân loại để nhân loại chuyển qua một thời kỳ mới. Để có thể đi hàng trăm năm tới, hoặc 500 năm tới, trước khi nền văn minh này được chuyển qua một nền văn minh Nhân Chủ Pháp Trị. Điều Ông Cụ Lý Đông A của chúng tôi đã nói tới, đã bàn luận tới trong chổ riêng tư. Những việc này người ngoài không biết. Lời kêu gọi của chúng tôi đối với các quốc gia đứng ở giữa là rõ ràng và minh bạch. Chính các quốc gia đứng lừng khừng ở giữa đã hưởng rất nhiều thành quả qua sự hy sinh của hàng triệu người Việt Nam trong quá khứ. Cho nên, ngày hôm nay quý vị cần phải hiểu ra vấn đề. Ấy là chúng tôi chưa kể đến các quốc gia lừng khừng ấy và không một quốc gia nào lại không chịu ơn của nước Mỹ trong quá khứ. Nếu suy nghĩ kỹ, khi người Tàu thôn tính quốc gia các bạn, thì số phận các bạn và con dân các bạn sẽ ra sao? hay dân tộc các bạn cũng sẽ bị người Hán đồng hóa một cách không thương tiếc, như chính các chi cục Bách Việt chúng tôi xưa kia.

 

          Lịch sử cho chúng ta thấy đã có lần người Tàu gần như thôn tính 2/3 thế giới vào thế kỷ thứ 13, từ tháng chạp năm 1237 đến tháng 5 năm 1238, 4/5 lãnh thổ nước Nga bị Tàu mông cổ chiếm, Giáo Hoàng Innocent IV và Vua Saint-Louis nước Pháp quá khiếp sợ phải cho sứ sang cầu hòa, đây là một bài học mong các nhà lãnh đạo Á Châu, Âu Châu cũng như Nga đừng bao giờ quên. Tiện đây, chúng tôi cũng nhấn mạnh rằng: Người Mỹ không hề có ý định thôn tính bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một dân tộc nào. Người Mỹ, (xin nhắc lại), cũng chỉ muốn một thế giới ôn hoà, một thế giới an hoà, một thế giới mà mọi người chấp nhận chia sẽ tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên trí tuệ, chia sẽ trong những điều kiện có thể chấp nhận được với một thế giới có thể an toàn mà tiến vào thời kỳ Nhân Chủ và thế thôi!.

 

          Những ai ngoài kia, nếu không đồng ý với lập luận trên xin đưa ra bằng chứng cụ thể như: Hoa Kỳ đi chiếm đất dành dân?, xâm thực kinh tế?. v..v…, cũng xin nhắc cho quý vị một điều rằng: Trong Đệ Nhị Thế Chiến, nếu không có Hoa Kỳ ra tay nghĩa hiệp cứu giúp thì phe Trục nhất là Đức đã đạp thế giới dưới gót giầy sắt của họ, lúc đó chúng ta sẽ hiểu sự cai trị tàn bạo của Hitler ra sao, khoảng 6 triệu người Do Thái đã bị “nướng” trong các lò sát sinh là một bằng chứng hùng hồn nhất cho sự tàn bạo này. Hơn 250 ngàn thiếu nữ và phụ nữ Đại Hàn đã bị bắt cho lính Nhật “giải quyết sinh lý” (hảm hiếp), dân Đại Hàn thời đó 3 nhà mới được xài 1 con dao để tránh tình trạng nổi loạn.

 

          Trong thập niên 60s nếu Hoa Kỳ không mạnh dạn đem quân tham chiến ở Việt Nam để chận đứng làn sóng đỏ Cộng Sản tràn xuống cửa ngõ Việt Nam, thì có lẽ giờ này Trung Cộng đã nhuộm đỏ Á Châu. Nhật, Đại Hàn, Ấn Độ, Việt Nam, Đài Loan, Thái Lan, Phi Luật Tân, Mã Lai .v..v…và cả Úc Châu có lẽ đã xóa tên trên bản đồ thế giới. Lịch sử còn đó, đây là một bài học vô cùng quí giá về họa da vàng người Tàu mà thế giới phải học. Tin cũng cho biết TT Chirac nước Pháp sẽ công du Hoa Lục, để ký những hiệp ước trao đổi về kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự,. v..v…, chúng tôi “thật sự cầu mong” cho tổng thống chirac (không viết hoa) được thành công.

 

          Đối với quốc gia Đông Nam Á và Hoa Nam, chúng tôi cần nhấn mạnh thế này. Chúng ta cùng một tổ tiên, lịch sử oan nghiệt đã làm cho chúng ta ngày hôm nay trở nên có những khác biệt, chúng ta không nên để cho những sự khác biệt ấy trở thành những mâu thuẫn. Chúng ta có một kẻ thù chung! Một kẻ thù chung đó là Hán tộc!. Chúng ta, nhấn mạnh rằng: Chúng ta không chống con người. Mai đây, khi cuộc tranh chấp tan đi, thì con người dù da màu da nào đi chăng nữa, dù các văn hoá có khác nhau đi chăng nữa, chúng ta vẫn xử sự với nhau như những con người, vì chúng ta đều Là Người. Đó là điều mà chúng tôi muốn nhắn gởi đến với các nước Đông Nam Á. Như thế, các nước Đông Nam Á cần xác định cho rõ kẻ thù chính của các bạn là ai, và hãy mạnh dạn đứng về phía chính nghĩa của nhân loại và không làm tay sai cho Bắc Kinh.

 

          Đối với Cộng Đồng người Bách Việt Hoa Nam cần phải xác định rõ điều này, đừng để mình trở thành những công cụ của Bắc Kinh, của chủ nghĩa bành trướng Hán tộc. Một lần nữa, chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi xin nhấn mạnh lời nhắn gởi đến với các quốc gia Đông Nam Á, chúng ta cùng một chủng tộc, chúng ta cùng một tổ tiên, chúng ta có khác nhau là do thời gian, sống xa nhau, làm cho đời sống khác nhau, nhưng chúng ta vẫn là một và chúng ta cần phải nhìn cho rõ cái hướng đi của nhân loại.

 

          Đối với Hoa Kỳ, chúng tôi xin minh xác rằng: Trong cuộc chiến tranh lạnh Hoa Kỳ đã bỏ quên dân tộc Việt Nam như là một mưu kế để đánh bại Liên Sô, phá tan cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản, chúng tôi chia sẽ những vấn đề đó, vì đó là cuộc chiến tranh giữa Thiện và Ác. Nhưng nay chế độ cầm quyền ở trong nước, tức là Đảng Cộng Sản Hà Nội không còn chủ quyền nữa, mà họ đã trở thành tay sai chế độ bù nhìn của Bắc Kinh. Họ là Kẻ Thù của dân tộc Việt nam. Khi mọi chuyện đã xong, chúng tôi có thể nắm tay nhau để mà xí xóa những chuyện cũ. Nhưng giờ đây, họ vẫn là Kẻ Thù của nhân dân Việt Nam và đang làm tay sai bán nước cho ngoại bang phương Bắc, thì họ là Kẻ Thù của nước Mỹ, và họ là Kẻ Thù của các nước tự do văn minh thế giới. Chúng tôi yêu cầu Hoa Kỳ, dùng tất cả sức mạnh và quân sự của mình, làm thay đổi chế độ Cộng Sản ấy càng mau càng tốt. Nhưng, một điều cần lưu ý đặc biệt: cố gắng thế nào, để cho đồng bào tôi không bị thiệt hại nhiều trong thời gian sắp tới. Đây là mối lo canh cánh bên lòng của tất cả mọi người Việt Nam chúng tôi.

         

          Đối với các công ty, các đại công ty hiện đang làm ăn tại Việt Nam và Trung Cộng, chúng tôi cần nhấn mạnh:. Quý vị làm thương mại để kiếm lợi nhuận, chuyện đó chúng ta không bàn tới, nhưng trong việc đi tìm lợi nhuận, nó còn có vấn đề đạo đức trong kinh doanh nữa, tất cả quý vị hẳn nhiên biết rõ điều này. Quý vị xử sự như thế nào, đó là quyền của quý vị. Nhưng, xin thưa với quý vị và ở đây chúng tôi muốn nhắn gởi một lời rất rõ: Vào một lúc nào đó, nếu những sự thuyết phục không đi tới đâu, thì chúng tôi yêu cầu các công ty đa quốc như Nhật Bản, Âu Châu, Mỹ v.v…, hãy rời khỏi thị trường Trung Quốc cũng như thị trường Việt Nam. Chỉ có cách đó thì mới tạo ra áp lực để cho họ phải thay đổi. Chúng ta phải có nhiều phương cách buộc Trung Cộng hay Việt Cộng phải từ bỏ cái mộng xâm lăng Việt Nam, xâm lăng các quốc gia láng giềng.

 

          Đối với người Việt Hải Ngoại. Chúng tôi cần nhấn mạnh như thế này, thời gian qua một số lớn người Việt hải ngoại đã gây ra rất nhiều phiền hà cho nước Mỹ, cũng như cho những người còn ưu tư về Tiền Đồ Dân Tộc. Nhiều người trí thức, có biết cầm bút viết này viết nọ đã bị lạm dụng, đã bị lợi dụng hoặc vô tình, hoặc cố ý để làm lợi cho Cộng Sản, họ tuyên truyền những thứ mà Cộng Sản muốn tuyên truyền như: Hòa hợp hòa giải, đa nguyên đa đảng, (nhưng họ đâu hiểu rằng hiện tại Cộng sản Hà Nội đã làm tay sai cho Bắc Kinh bán rẻ dân tộc vì tư lợi của chúng). Họ kêu gọi “dân chủ bầu cử tự do” cho Việt Cộng. Những người này họ rất khéo léo, với cái vỏ bên ngoài là Tù Tội? Đối Lập?, họ có tài đi ru ngủ các cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ tự nhận họ là “người quốc gia”, họ tìm cách hợp thức hoá cho Cộng sản Hà Nội có một bộ mặt Dân Chủ, họ tìm cách đánh bóng cho Cộng sản, họ mong Cộng sản mãi mãi cầm quyền, vì đó là quyền lợi cho bản thân họ và cho gia đình họ. Tất cả những việc đó, không qua mắt được những người có sự hiểu biết. Nhưng thời gian qua, chúng tôi im lặng. Đây là một sự im lặng để xem thái độ của những người đó như thế nào, hiện tại lằn ranh Quốc – Cộng đã rõ ràng.

 

          Trong lời phát biểu hôm July 4th, nhân danh các Cụ, chúng tôi đã nói một số điều để cho những người đó thấy những việc phải làm. Hai tháng trôi qua, ngày hôm nay, chúng tôi long trọng nói lên mấy điều nữa: Đối với những ai, những người Việt nào nghĩ rằng họ có thể làm thay đổi chế độ Cộng Sản một cách từ từ, bằng cách đi về Việt Nam để du lịch, để đầu tư, để buôn bán, hoặc giả là để gởi tiền về Việt Nam mua nhà, tậu đất, mua ruộng, mua vườn, thì những người đó là những người thực sự hợp tác với chế độ Cộng Sản. Họ cộng tác với bọn người bán nước Cộng Sản Hà Nội là họ cộng tác với Tàu (vì hiện tại Cộng sản Hà Nội đã làm tay sai cho Tàu). Khi họ cộng tác với Tàu trong hiện tại họ là Kẻ Thù của Hoa Kỳ, cộng tác với Tàu thì họ là Kẻ Thù của Dân Tộc Việt Nam. Đó là điều mà chúng tôi cần phải nói lên, để đất nước Hoa Kỳ này hiểu rằng: Người Việt Nam chúng ta không bao giờ đồng lõa với tội ác, chúng ta chưa bao giờ và không bao giờ là những kẻ bán nước và làm tay sai cho Tàu xâm lăng nước Việt, xâm thực thế giới.

 

          Thứ hai: Đối với những người Việt Nam làm trong công việc truyền thông, hay đang làm kinh doanh buôn bán ở đây. Những người đã lợi dụng sự tự do ngôn luận phổ biến những quan điểm có lợi cho Cộng Sản và cố tình ru ngủ cộng đồng người Việt. Như vậy những người ấy hợp tác với Cộng Sản, và làm lợi cho Cộng Sản Hà Nội, chống lại chính nghĩa quốc gia. Khi họ làm lợi cho Cộng sản Hà Nội, là mặc nhiên họ đã hợp tác với Tàu Trung Cộng, hợp tác với Tàu Cộng họ là Kẻ Thù của Hoa Kỳ, và cũng là Kẻ Thù của dân tộc Việt Nam vậy!.

 

          Thứ Ba: Đối với các tổ chức do người Việt hải ngoại dựng lên trong thời gian qua (đa số các tổ chức này do tình báo Việt Cộng đứng bên trong điều khiển và giật dây) để chống “Cộng”. Nếu các tổ chức ấy không đích thực làm lợi cho Cộng Đồng người Việt hải ngoại, thì họ là những tổ chức trá hình của Cộng Sản đang hoạt động ở đây. Các tổ chức trá hình của Cộng Sản Hà Nội, thì họ là công cụ của Tàu là tay sai cho Tàu Trung Cộng. Họ là công cụ của Tàu thì họ là Kẻ Thù của dân tộc Việt Nam và họ là kẻ thù đang hoạt động cho Tàu đánh phá xã hội Hoa Kỳ, các tổ chức này họ đang làm ung thối các cộng đồng người Việt và xã hội Hoa Kỳ. Chúng tôi yêu cầu các cơ quan công quyền của Hoa Kỳ như: Sở Di Trú, Bộ Nội An, Cơ Quan Thuế Vụ, Cơ Quan An Ninh Liên Bang, phải có những biện pháp nghiêm khắc đối với những tổ chức bất hảo và những thành viên của những tổ chức đó. Nếu không một ngày nào đó họ sẽ là những tên tay sai theo chỉ thị của Tàu để đánh phá đất nước Hoa Kỳ.
 

          Để kết thúc cho bài nói chuyện hôm nay, tôi xin nhắc lại một câu chữ Nho:

 

Thế Thượng Vô Nan Sự.

– Đãi Hiềm Vô Đại Nhân.

 

          Nghĩa là chuyện thế sự ở đời không có gì là khó khăn mà không giải quyết được, Hiềm một nỗi là không có người Đại Nhân ra tay cứu giúp. Rất may cho các nước Á Châu và cũng rất may mắn cho đất nước Việt Nam, nước Mỹ trong giai đoạn này lại xuất hiện những Đại Nhân, những Hiền Tài. Họ ra để có thể cứu vãn thế giới, cứu vãn nền văn minh này. Họ có thể cứu vãn sự sống còn của dân tộc chúng tôi, sự sống còn của các dân tộc bị áp bức bởi Trung Cộng, trong đó có Miên, Lào, Miến Điện, Nepal, (Tây Tạng). v..v…và nhiều nửa.

 Lê Văn Xương.

April 4, 2008

Không visa, du khách Trung Quốc vẫn được đi khắp Việt Nam

tq_vaovn1.jpgtq_vaovn2.jpgtq_vaovn3.jpg

04:46′ 08/09/2004 (GMT+7)

(VietNamNet) – Bắt đầu từ chủ nhật tuần tới (12/9), khách Trung Quốc có thẻ du lịch có thể tham quan bất kỳ tỉnh, thành nào của Việt Nam mà không cần visa, thay vì chỉ 7 tỉnh, thành phía Bắc như hiện nay

http://vietnamnet.vn/kinhte/2004/09/256728/

Từ 12-9, du khách Trung Quốc vào VN sẽ được miễn visa

Khách du lịch Trung Quốc sẽ được miễn visa vào Việt Nam; ngược lại người VN du lịch sang TQ phải xin visa !  Người gốc Việt về VN cũng phải xin visa, trả tiền ! Rất lạ lùng, tính công bằng, cách đối xử độc đoán, bất công, kỳ thị, giả dối, lố bịch của NN xhcn !  Chia rẻ khối đại đoàn kết dân tộc vì lợi ích phe đảng, để lại những hệ lụy nghiêm trọng tương lai cho nhân dân VN !!!?

Cuối 2005, ASEAN miễn visa du lịch trong khối

những biện pháp vừa giải quyết được lo ngại an ninh vừa triển khai kế hoạch miễn visa cho các cư dân…, nhiều quốc gia ASAN đã ký hiệp định song phương về việc miễn thị thực qua lại cho công dân của nhau. Tuy… http://vietnamnet.vn/thegioi/tintuc/2005/01/370445/
Cơ hội đi máy bay miễn phí đến châu Á

Asia)Khách hàng chỉ có thể đặt được chỗ miễn phí trên trang web www.airasia.com  và thanh toán bằng thẻ Visa hoặc…(VietNamNet) – Bắt đầu từ 0h đêm mai,
–  

March 23, 2008

Khôn nhà dại chợ!

Tác giả:  Nguyễn Thanh Ty   
   

 

Ngày gởi đăng: 3/22/2008

Phải công nhận Đảng và Nhà nước ta rất anh hùng. Trong thời gian “xẻ dọc Trường Sơn, miệng ngậm B.40 đi cứu nước” đã sản sinh ra rất nhiều anh hùng.

Nhiều đến nỗi “ra ngõ là gặp anh hùng”.

Trúc rừng không đủ lá để ghi công đức.

Đến nay, dân số lên tới tám mươi ba triệu lẻ mấy trăm, mà đã có tới tám mươi triệu anh hùng đoạt giải quán quân về khoản “thắt lưng buộc bụng” từ cái lúc tên đồ tể Lê Duẩn hung hăng con bọ xít phán rằng “Dân tộc ta là anh hùng. Đảng ta là đỉnh cao trí tuệ loài người”.

Ba triệu sót lại, không phải là dân thường mà là “đảng viên”. Họ sống khoẻ, béo tốt hồng hào nhờ ăn bám vào cái dù của Đảng ta.

Và một nhúm nhỏ, mấy trăm lẻ, là loại người đặc biệt, vừa không phải là anh hùng, vừa là không phải là dân thường.

Họ là những ông kẹ.

Nhưng họ có tính khiêm nhường của “bậc phụ mẫu chi dân” hay ví mình là “đày tớ của dân” “quên mình vì dân mà phục vụ”.

Những ông kẹ này chẳng ai biết ở mô tê, bỗng dưng tự nhảy lên đầu tám mươi triệu anh hùng để đè đầu, đè cổ rồi tự hô hoán lên rằng:

– Toàn thể nhân dân tuyệt đối tin tưởng và bằng lòng để tụi tui lãnh đạo đất nước!

Thế rối, hết đời cha tới đời con, cứ tiếp tục thay nhau ngồi trên đầu thiên hạ.

Mỗi lần nhường ngôi như thế, Đảng và nhà nước ta cho diễn vở tuồng “Đảng cử dân bầu” hô hào dân chúng đi xem miễn phí. Mỗi người được phát cho cái vé có in dòng chữ: Đi đông, bầu đúng, cử xứng.

Màn hát kéo lên rồi hạ xuống. Từ thái thượng hoàng, đức vua, tể tướng, đến văn võ bá quan, áo mũ cân đai, vẻ mặt bôi vôi, ra trình làng.

Mấy tay mõ làng, khua chiêng đánh trống rao lên rằng: Toàn thể lãnh đạo đều được dân tín nhiệm 99.99%.

Người dân đứng dưới khán đài xì xồ, xì xào:

– Đi vô, đi ra cũng thằng cha hồi nãy! Tụi tui đâu có bỏ phiếu cho thằng chả, sao chả cũng đắc cử hè?

Đó là chuyện tín nhiệm 99.99%.

Còn chuyện “trị quốc an dân – kinh bang tế thế” thì ra răng?

Tiền đề quả quyết một cách chắc nịch Đảng ta là “Đỉnh cao trí tuệ loài người”. Cho nên, không cần diễn nôm, ai cũng biết là Đảng ta là số 1. Tiếng Tàu gọi là số dzách”. Tiếng Mỹ gọi là “Nâm bờ oanh”.

Bài này chỉ bàn riêng về tài “đối nội và đối ngoại” của Đảng và nhà nước ta trong chuyện đối phó với “thù trong giặc ngoài”.

Không biết Đảng ta từ lúc biến da con tắc kè màu xanh Đảng Lao Động thành màu đỏ Đảng Cộng Sản có ân oán giang hồ gì với thế giới không, mà lúc nào Đảng ta cũng nơm nớp lo sợ “các thế lực thù địch ngoại bang”.

Đó là bọn giặc ngoài. Mà Hoa Kỳ là kẻ thù chiến lược. Ngoài ra còn nhiều kẻ thù khác nữa. Bọn chúng luôn có âm mưu “diễn tiến hòa bình” hòng xâm lược ta.

Còn thù trong là “bọn phản động trong và ngoài nước”, lúc nào cũng “nói xấu, xuyên tạc, chống phá nhà nước ta”.

“Bọn ngoài nước” ý Đảng ta ám chỉ mấy triệu “khúc ruột ngàn dặm”, “một bộ phận không thể tách rời”, là “máu của Đảng ta”, đang làm ăn khấm khá khắp nơi trên thế giới, có đô la rủng rỉnh trong túi. Bọn này chỉ được phép đem đô la về nước giúp Đảng ta sống khoẻ thôi chứ không được bép xép cái mồm đòi tự do, dân chủ gì sất.

Trong nước có ai nói tiếng nói khác với Đảng ta thì “đích thị là bọn Việt gian nhận tiền bọn ngoài nước, để tuyên truyền chống phá nhà nước XHCN”. Đảng ta “kiên quyết” đập nát từ trong trứng nước, nghĩa là từ khi mới “mở miệng” đòi dân chủ. Một loạt các nhà bất đồng chính kiến bị bắt giam và bỏ tù. Như LM Nguyễn văn Lý, Luật Sư Nguyễn Văn Đài, Luật Sư Lê Thi Công Nhân, Bác Sĩ Lê Nguyên Sang, nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thủy… Nhẹ hơn một chút thì cho công an đến canh cửa ngày đêm. Như Kỹ Sư Đỗ Nam Hải, ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, nhà văn Hoàng Tiến, Hà Sĩ Phu…

Để đối phó với “thù trong” là bọn “ngoài nước” Đảng ta đã lập ra một bộ máy an ninh khổng lồ, tinh vi, nhạy bén, hữu hiệu, bao trùm khắp nơi như giăng thiên la địa võng.

Một con mén chui ra cũng khó lọt.

Điển hình thử một vài vụ cho thấy cái tài tình của Đảng ta, thường cao rao với thế giới là “Việt Nam rất ổn định chính trị”, chứ không phải là điều nói bá vơ.

Chẳng hạn như bà Thương Cúc, ông Đỗ Công Thành hai Việt kiều Mỹ, trước đó không ai biết hai người này là ai, làm cái gì. Chỉ biết rằng họ theo lời kêu gọi của Đảng ta về quê hương để “ăn khế ngọt”. Thế mà Đảng ta biết rất rõ họ từ chân lông đến kẽ tóc “rằng thì là”- Chúng là bọn “khủng bố” về nước để mưu toan lật đổ nhà nước ta. Hai người này vừa về đến Việt Nam là Đảng ta bắt giam liền một khi. Chờ ra Toà Án Nhân Dân cúi đầu nhận tội.

Thế mới là tài.

Xa hơn chút nữa, như ông Trịnh Vĩnh Bình, Việt Kiều Hoà Lan, cũng ham “chùm khế ngọt” của Đảng ta móc trên lưỡi câu sấu, ôm hết của cải dành dụm mấy mươi năm về “góp phần xây dựng đất nước”. Ai cũng tưởng thế là tốt.

Nhưng Đảng ta lại biết rõ bên trong, tay Vĩnh Bình này tiếng bề ngoài là vậy nhưng bên trong không phải vậy. Đảng ta chờ cho mấy năm sau, con cá này mập lên, Đảng ta giật cần, xách mép con cá, cũng cho vào Toà Án Nhân Dân với tội danh “trốn thuế, làm ăn phi pháp” lãnh 12 năm tù.

Hết chối nhé.

Rồi một doanh nhân ở Pháp, cũng vì “chùm khế ngọt” nữa, ông Nguyễn Gia Thiều về làm ăn đàng hoàng, tạo dựng một cơ sở buôn bán điện thoại di động hiệu Nokia và Sam Sung với một người em. Đang làm ăn khấm khá, bỗng dưng công an đến thộp cổ ông Thiều với tội danh cáo buộc là buôn lậu điện thoại. Ông ta bị Toà Án Nhân Dân (cũng là Tòa Án Nhân Dân) tuyên án 20 năm tù.

Không được cãi nhé.

Thêm cái anh chàng dở hơi Trần Trường bên CaLi không biết đã ăn “trái khế ngọt” nào của Đảng cho chưa, bỗng hóa điên, đem cờ đỏ và “ảnh lộng kiếng Bác” treo trong tiệm cho thuê băng ca nhạc của mình, xuýt chút nữa thì bị cộng đồng hải ngoại cho lỗ mũi ăn trầu.

Trần Trường nhà ta hãi quá, ôm một mớ đô la chạy về Việt Nam “mách Bu”. Cứ tưởng bở sẽ được Bu xoa đầu an ủi. Ai dè bị Bu đè xuống lột không còn cái quần xà lỏn. Bây giờ thì Trần Trường biến thành Trần Truồng mà không thể há miệng kêu ca gì được bởi Đảng đã ngáng cái dùi cui giữa hai hàm răng rồi.

Trần Truồng lâm vào cảnh lưỡng đầu thọ địch. Không dám vác mặt về lại CaLi, đành phải chịu ở lại cái hóc Bà Tó Năm Căn chờ chết già.

Nhưng chuyện vui và hấp dẫn nhứt gần đây là chuyện ông Nguyễn Đình Hoan, Việt kiều Mỹ.

Theo ký giả James Hookway của báo The Wall Street Journal ngày 14/8/07 tường thuật thì nội vụ như sau:

Cách đây một thập niên, ông Hoan về Việt Nam với những dự án để xây dựng một ngôi trường quốc tế. Ông ta nói rằng ông ta rất phấn khởi với niềm hy vọng cho nơi chôn nhau cắt rún của ông.

Nhưng hồi năm ngoái ông đã phải nằm trên một cái chõng ẩm ướt trong nhà tù B14 tại Hà Nội sau một vụ tranh chấp trong việc làm ăn với các đối tác của nhà nước Việt Nam.

Năm 1995 ông về Việt Nam với kế hoạch thiết lập một trường quốc tế để phục vụ cho những gia đình ngoại quốc lúc bấy giờ đang ồ ạt đến Việt Nam. Ông lập ra trường Quốc Tế Hà Nội với sự hợp tác của Trung Tâm Giáo Dục Nhà Nước Việt Nam vào năm 1996. Nhà nước cung cấp một hợp đồng 20% thuê mướn trên một mảnh đất mà bây giờ rất có giá gần trung tâm Hà Nội, để lấy về 30% lợi tức trong nghiệp vụ này.

Khi giá trị miếng đất mà ngôi trường đang xây trên đó gia tăng, thì căng thẳng giữa ông Hoan và các đối tác của ông cũng tăng theo.

Tháng 6/2006 công an đã bắt giữ ông để điều tra việc đối tác nhà nước tố cáo ông đã nhận bảo hiểm y tế một cách bất hợp pháp. (?)

Ông đã nằm tù 14 tháng để chờ điều tra. Hàng ngày ông nghe đài của nhà nước Việt Nam oang oang mỗi buổi sáng trong sân nhà tù, thúc dục người Việt hải ngoại trở về để bồi đắp vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của đất nước. Mặc dù với nhiều bằng cấp từ hai trường Đại Học Vanderbilt và George Mason ở Hoa Kỳ, ông vẫn không hiểu nổi vì sao ông đã làm đúng những điều nhà nước mong muốn và cuối cùng thì vào tù.

Vợ ông đã phải trả 85 ngàn Mỹ Kim mà nhà nước VN bảo là tiền thế chân. Trong khi ông Hoan đang ngồi tù thì Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã khuyến cáo vợ ông Hoan là không nên đi về Việt Nam để cố tìm cách lấy lại tự do cho chồng, bởi vì họ không thể nào bảo đảm cho sự an toàn của bà.

Sau 14 tháng ngồi tù, công an kết luận trong bản báo cáo sơ khởi là không có bằng chứng rõ rệt nào để đưa ông Hoan ra tòa và thả ông ra. Nhưng tiền thế chân thì chưa hoàn trả.

Và ông Hoan vẫn đang chờ xem các công tố viên Việt Nam có quyết định chính thức để buộc ông vào bất cứ tội danh nào hay không.

Vào tháng 6, sau khi ông Hoan được thả ra, trường hợp của ông được đưa lên bàn làm việc của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng. Theo báo Công An Nhân Dân thì ông Dũng đã chỉ thị cho các thành viên người Việt trong ban giám đốc nhà trường phải giải quyết ngay những tranh chấp giữa nhà trường với ông Hoan, nếu không xong thì nhà nước sẽ ra tay với những quyết định riêng. (?)

Được biết Hồ Ngọc Đài, cựu giám đốc Trung Tâm Giáo Dục Nhà Nước Việt Nam là đối tác của ngôi trường quốc tế này, và là con rể của một cựu tổng bí thư đảng, đã gọi ông Hoan là “một tên ăn cắp” nhưng từ chối không chịu giải thích lý do tại sao hắn ta chắc chắn ông Hoan là một tội phạm và không muốn nói nhiều thêm về vấn đề này. (Lược trích bản dịch của Khánh Đăng)

Ông Nguyễn Đình Hoan tuy là một trí thức nhưng đối với Cộng Sản ông vẫn còn quá ngây thơ, dù cho đã trải qua ba mươi năm kinh nghiệm xương máu.

Một điều giản dị mà ai ai cũng thấy được, riêng ông thì không. Đó là vấn đề tiền trên hết chứ không phải là “giáo dục”.

Ai đời, đa số người ta về VN là để móc nối với “cán bộ đảng ta” dựa thế, dựa thần để kinh doanh, để buôn lậu, để mánh mung, rồi chia chác 50/50 hoặc tui tứ anh lục. Riêng ông thì lại hăm hở với chuyện mở trường để “trăm năm trồng người”. Người ta hùn cho ông miếng đất mà ông chỉ chia có 30% lợi nhuận thì “biết đời cha” nào mà làm giàu nhanh được?

Bây giờ miếng đất đang nằm giữa thủ đô đang lên giá vùn vụt, giá mét vuông đất được tính bằng kim cương chớ không tính bằng vàng nữa. Người ta muốn xóa hợp đồng để lấy lại miếng đất, bán lấy tiền bỏ túi cho mau lẹ nên ông đừng thắc mắc là tại sao nhà nước bắt ông vì hai cái cớ lãng xẹt ruồi bu là “mướn lậu” trợ tá để dạy Anh ngữ và nhận “bảo hiểm y tế bất hợp pháp”.(?)

Gần đây nhất, đám dân oan mười bốn tỉnh miền nam gần cả ngàn người, kéo lên Sài Gòn, căng lều giăng bạt trước Tòa Nhà Quốc Hội để kêu oan vì bị mấy ông bà quan đỏ cướp đất, cướp nhà, suốt gần một tháng trời trong cảnh gió mưa, đói khổ.

Đảng và nhà nước ta dùng chiến thuật “thủ khẩu như bình” để người dân kêu mãi thì mỏi miệng, la mãi thì khan cổ, đứng mãi thì mỏi mệt. Lúc đó không đánh cũng tan. Cuối cùng thì nhà nước ta cũng thương tình cái đám dân oan, cho xe cây đến chở dân về bản xứ và thân tặng mỗi người mấy cái dùi cui để nhớ đời.

Trên đây chỉ là đơn cử vài vụ điển hình trong rất nhiều vụ liên quan đến “chùm khế ngọt” để thấy Đảng ta đối phó “thù trong” tài tình đến cỡ nào.

Về đối ngoại với bọn “giặc ngoài” thì sao?

Khi Liên Xô sụp đổ đầu thập niên 90, thay vì nhanh chóng lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, Việt Nam đã liên kết với Trung Quốc để bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, xem Hoa Kỳ là kẻ thù chiến lược. Cũng kể từ lúc ấy, Việt Nam đã tự đưa đầu mình vào vòng kim cô của Trung Quốc, kéo đất nước trì trệ thêm hằng chục năm so với các nước trong vùng.

Người dân Việt chưa có thấy Hoa Kỳ “chống phá” Đảng và nhà nước ta ở cái khoản nào mà chỉ thấy trước mắt họ đổ tiền của và công sức vào giúp cho Đảng ta, môt con bệnh trầm kha nằm chờ chết, ngày càng thêm khoẻ ra.

Trong lúc Trung Quốc “vừa là đồng chí vừa là anh em”, trước mặt thân thiết tặng Việt Nam “mười sáu chữ vàng”, sau lưng thủ sẵn chiếc dao găm đâm người anh em “khờ khạo”những nhát trí mạng.

Trong việc giao thương với Hoa Kỳ, Trung Quốc luôn tìm cách ngăn cản. Vụ ngưng ký hiệp ước giao thương với Hoa kỳ, để cho Trung Quốc ký trước, năm 2000 là một ví dụ.

Đảng và nhà nước ta không những không coi Trung Quốc là “giặc ngoài” mà còn quyết tâm khấu đầu làm cái bóng của thiên triều. Ngược hẳn lại với lòng dân, luôn coi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp phải cảnh giác đề phòng.

Với sự thần phục khiếp nhược của Đảng ta, Trung Quốc ngày càng lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải mà Đảng ta không dám ho he một tiếng dù là phản kháng yếu ớt. Lại đơn cử vài ví dụ điển hình cho thấy rõ ràng Đảng ta “khôn nhà dại chợ”.

Ngoài việc thường xuyên phá hoại nền kinh tế của ta mấy mươi năm nay bằng cách tuồn hàng lậu ồ ạt vào các cửa khẩu biên giới từ cái trứng gà cho đến máy móc trang thiết bị… làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam phá sản.

Kinh tế nước nhà ngày càng lụn bại…

Trung Quốc còn uy hiếp nước ta bằng vũ lực. Đã nhiều lần Hải Quân Trung Quốc bắn giết ngư phủ của ta để khiêu khích nhưng Đảng ta đền ơn đáp nghĩa “mười sáu chữ vàng” ông anh đã tặng cho bằng bốn chữ “im lặng là vàng”.

Theo tin BBC, ngày 20/7/07 “tàu Hải Quân Trung Quốc hôm 09/7 đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách TP Sài Gòn 350 Km làm cho một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương”.

Biến cố xảy ra đã 2 tuần lễ mà Việt Nam vẫn hoàn toàn im lặng.

Hai năm trước, ngày 08/01/05, Hải Quân TQ xả súng bắn chết 9 ngư dân Việt Nam cư ngụ tại các làng chài lưới vùng Thanh Hóa, bắt đi 8 người khác và tịch thu một thuyền đánh cá.

Phía TQ lại ngang ngược gán tội những ngư dân Thanh Hóa là hải tặc.

Phía Việt Nam vẫn giữ thái độ im lặng.

Cho đến nay, không ai biết việc này đã giải quyết ra sao.

Có lẽ Đảng ta lại áp dụng chiêu cũ “thủ khẩu như bình” để phía TQ bắn giết ngư dân Việt mãi cũng phải mỏi tay thì ngưng. Thế là mọi việc lại “ổn định”?

Các ngư dân Việt Nam đánh cá trong vùng biển xảy ra biến cố là trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. Thế mà, Đại Tá VC Lê Phúc Nguyên, phó tổng biên tập báo Quân Đội Nhân dân, trả lời phỏng vấn với báo The Straits Times (Tân Gia Ba) được BBC ghi lại ngày 19/7:

“Ngư dân rất khó mà biết được đâu là lằn ranh chính xác giữa hai bên. Thế nhưng không nên dùng vũ lực trên biển vì việc này sẽ chỉ dẫn đến các vấn đề nghiệm trọng hơn mà thôi”.

Câu trả lời của ông Nguyên rất “ấm ớ hội tề”, giống như con đà điểu rúc đầu vào cát, chổng đít ra ngoài để tránh nạn.

Hải Quân TQ thường xuyên “dùng vũ lực” trên biển đối với ngư dân ta, nhưng đã dẫn đến “vấn đề nghiêm trọng” nào chưa?

Đài Loan cách đây không lâu cũng tập trận bằng đạn thật trên đảo Ba Bình, thuộc Trường Sa, xây rada, làm lại phi trường, công sự chiến đấu trên đảo nhưng Việt Nam làm gì được Đài Loan?

Phía Nam Dương cũng thế, vừa rồi bắn chìm thuyền và gây tử thương nhiều ngư dân Việt Nam, nhưng có việc nào “nghiêm trọng” xảy ra đâu?

Nguồn tin BBC: “Các nguồn tin quân sự nói ngày 9/7 hai tàu chiến cơ động BPS-500 của VN do Nga thiết kế đã vội vã đến hiện trường như phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ tàu Trung Quốc. Đại Tá Nguyễn Phúc Nguyên nói: “Về lâu dài, chúng tôi cần củng cố lực lượng Hải Quân cũng như nâng cấp các đơn vị tuần tra ven biển”

Rõ ràng Hải Quân VN quá yếu, chỉ có khả năng đứng xa xa và ngó trước súng của địch. Hải quân VN chỉ có khả năng duy nhất là chạy bắt người vượt biên.

Cũng như những vạc dầu không biết từ đâu, liên tục trong nhiều tháng, từ đầu năm 2007, từ ngoài khơi tràn vào bờ biển miền Trung VN, chạy dài từ Quảng Bình cho đến Phan Thiết, gây ô nhiễm môi sinh và làm thiệt hại kinh tế lớn lao cho người dân sống trong vùng.

Đến tới hôm nay, nhà nước vẫn chưa biết nguồn gốc các vết dầu loang ấy từ đâu. Mới đây, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nói sẽ nhờ Nhật bản truy tầm dùm.

Chắc chắn các vệ tinh của Nhật sẽ truy ra ngay. Họ đã biết các vạc dầu ấy từ đâu đến, nhưng nhà nước VN không dám công bố vì khiếp sợ phản ứng của Trung Quốc. Vì tháng 5/1992, TQ ký với công ty Crestone, Hoa Kỳ để tìm dò một khu vực 25.000 km2 thuộc lãnh hải VN, nằm về phía tây thuộc đảo Trường Sa. Tháng 8/06 TQ cho khai thác giếng dầu Hóa Quang, thuộc khu vực Hoàng Sa, cách Đà Nẵng 230 km. VN có lên tiếng phản đối lấy lệ nhưng TQ bất chấp.
Như thế chắc chắn các giếng dầu của TQ khai thác đã làm dầu tràn gây ô nhiễm cho bờ biển miền Trung VN.

Trong một bài viết nhan đề: Vấn đề tranh chấp Trường Sa: hậu quả của những sai lầm chiến lược, ông Trương Nhân Tuấn, tác giả, nhận định: “Ở đây ta thấy Nhà nước Việt Nam, dầu đã tỏ ra rất côn đồ trong việc giải quyết các vụ dân oan đảng cộng sản cướp đất trong những ngày trung tuần tháng 7/07 vừa qua, nhưng lại tỏ ra khiếp nhược đến mức hèn hạ trước những nước hùng mạnh khác”.

Ông đề nghị:

“ Việt Nam không thể bó tay, bất lực “từ xa đứng nhìn” như hiện tại.

Lãnh đạo VN hãy tức thời mở mắt, định hướng lại chiến lược quốc gia, nhận rõ đâu là bạn đâu là thù, phải coi quyền lợi dân tộc là tối thượng. Tình trạng này kéo dài là mất tất cả cho Tàu. Trước mắt, nhà nước VN (phải) lấy bớt ngân sách cho công an, giải tán ít nhất 2/3 đám côn đồ ức hiếp dân lành này, thanh lọc, chỉ chọn những người có ý chí phục vụ cho dân, lấy lại ngân sách dành cho tổng cục 2, dẹp bỏ hệ thống đảng ủy song song với hệ thống nhà nước, dẹp đám đảng viên ăn hại đái nát, ăn bám vào dân, là gánh nặng cho đất nước, thanh lọc lại toàn bộ nhân sự Bộ Quốc Phòng, tuyển những người trong sạch, có khả năng quân sự, tất cả dồn vào việc hiện đại hóa quân đội, thì rất có thể không bao lâu VN sẽ có thể có khả năng làm cho đối phương nhượng bộ”.

Những điều ông Tuấn đề nghị chỉ là mơ ước hão huyền. Nếu mấy tay lãnh đạo CS biết nghĩ như ông chừng một phần mười thôi, thì từ năm 75 đến nay, ba mươi năm qua, đất nước VN dù không bằng Nhật Bản cũng không đến nỗi kém cạnh Thái Lan hay Tân Gia Ba chứ có đâu tụt hậu quá mạng vậy. Còn thua cả Căm Pu Chia mấy phần.

Đảng ta sống hùng, sống mạnh và giữ vững được cái ngai vàng đến ngày hôm nay là nhờ cả vào lực lượng công an mà ông gọi là cái đám côn đồ ăn hại đái nát, ăn bám vào dân rồi hà hiếp dân, ông lại nhè đề nghị giải tán, Đảng có mà chết bất đắc kỳ tử à? Hoài công!

Thà rằng mất nước vào tay Tàu cộng, (cũng đã mất ải Nam quan và thác Bản Giốc từ lâu rồi, có làm sao đâu) cũng là đất nước XHCN cả, đâu còn ranh giới quốc gia nữa, Trung Quốc là ta, ta là Trung Quốc, còn hơn là mất Đảng mất ngai.

Chỉ xấu hổ một nỗi là Đảng và nhà nước ta đối với người dân mình thì giỏi dùng bạo lực dùi cui, súng A.K để đàn áp thẳng tay, còn đối với những thế lực ngoại bang thì chỉ “đứng xa xa mà ngó” với thái độ khiếp nhược.

Dẫu hèn nhát không dám ra tay đánh trả với đám tàu ô TQ như quân lực VNCH năm 1974 đã từng hy sinh mạng sống để chống trả đến cùng, thì cũng ráng hô lên một tiếng nói phản kháng để còn giữ được mặt mũi quốc gia chứ.

Lẽ nào lại chịu nín nhịn ô nhục đến như vậy!

Lại cứ đóng cửa mà hô khẩu hiệu “Việt Nam anh hùng. Ra ngõ gặp anh hùng”.

Nếu thật được như vậy, ta sẽ cho thằng Vi Tiểu Bảo đến trước Bắc bộ phủ mọp đầu hô to ba trăm lần, “Đảng CSVN muôn năm trường trị, thống nhất giang hồ”, gấp trăm lần thằng Nguyễn Văn Trỗi của đại thi nô Tố Hữu phịa ra, trước khi bị xử bắn, hô ba lần “Hồ Chí Minh muôn năm”.

Có giỏi thì “khôn ngoan đá đáp người ngoài”. Còn cái kiểu xử sự như bấy lâu nay của mấy “đỉnh cao trí tuệ” thì rõ là khôn nhà dại chợ.

March 22, 2008

Hỏa mù trong mặt trận Văn hóa

Điều làm nhiều người vô cùng ngạc nhiên là vào thời điểm này –duới ánh sáng mới của khoa học- mà còn một số trí thức khoa bảng Việt Nam tung ra hai hỏa mù trong mặt trận văn hóa giữa Ta và Tàu:
Hỏa mù trong mặt trận Văn hóa giữa dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa

Vĩnh Như

Diễn đàn Việt Việt học – viethoc.org

– Mặt thật của các ông Thánh Trung Hoa
– Cuộc Xâm Lăng Không Tiếng Súng

Điều làm nhiều người vô cùng ngạc nhiên là vào thời điểm này –duới ánh sáng mới của khoa học- mà còn một số trí thức khoa bảng Việt Nam tung ra hai hỏa mù trong mặt trận văn hóa giữa Ta và Tàu:
1- Khuynh hướng xem văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Tàu: Việt Nam cùng lắm cũng chỉ là một cành Nam của gốc Hán.
2- Khuynh hướng đi tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam ở tận bên Tàu: Khổng Tử đã công thức hóa, chữ nghĩa hóa văn hóa của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu thành Ngũ Kinh và Tứ Thư. Khuynh hướng này cho rằng nếu bỏ Nho thì chúng ta chỉ tìm thấy ngọn chứ chưa đến tận gốc của văn hóa Việt. Khuynh hướng này đã “sáng tạo” ra quan niệm Nho giáo có bốn giai đoạn:
a) Hoàng Nho, thuộc Tam Hoàng từ 4450-3080 trước Tây lịch.
b) Di Nho, thuộc thời vua Thuấn (2255 trước Tây lịch), vua Vũ (2205 trước Tây lịch).
c) Việt Nho, hay Nguyên Nho (nội dung Việt Nho được Khổng Tử công thức hóa thành kinh điển của Nho giáo thời Xuân Thu 821 trước Tây lịch.
d) Hán Nho cũng là Nho giáo từ thời nhà Chu (1122 trước Tây lịch), nhưng bị sa đọa với sự xuyên tạc của nhà Hán (Đông Lan Yêu Mến An Vi, nxb Văn Hiến năm 2004, tr. 194).
Nói Nho giáo là của Trung Hoa thì quá chung chung, và do vậy, không có sức giải thích. Còn nói rằng chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Bách Việt sống trên đất Tàu khởi sáng, rồi sau đó người Tàu hoàn bị thì có lẽ quá cực đoan và không có sức thuyết phục 95% người dân Việt sống trong xóm làng, cái nôi của văn hóa Việt Nam.

Phải chăng văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Trung Hoa?
Những quan niệm, ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Quốc Vượng ghi trong cuốn Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, cộng thêm những gợi ý, ý kiến của tác giả Trần Ngọc Thêm ghi trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Cung Đình Thanh trong tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học, tác giả Đào Văn Dương và tác giả Thường Nhược Thủy trong Đạo Sống Việt.
Duới ánh sáng mới của khoa học (khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học, di truyền học, hải dương học v.v…), với những tài liệu vật chất lấy lên từ lòng đất Việt Nam, người ta đã chiếu rọi vào quá khứ hàng mấy vạn năm.

Các nền văn hóa trên đất Việt.
Chỉ cần đi sâu nghiên cứu văn hóa Hòa Bình thôi (trước 15.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay) chúng ta biết được cư dân hòa bình (tiền thân của dân tộc Việt Nam) đã thuần hóa cây lúa hoang thành cây lúa nước (Oryza Sativa), thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước từ 6.000 năm đến 7.000 năm trước đây, trong bối cảnh Đông Nam Á, có thiên nhiên phong phú và đa dạng. Trước đó cả ngàn năm cư dân Hòa Bình đã biết trồng cây có củ, cây ăn quả (bầu bí, rau dưa) v.v… Các nhà nghiên cứu đều đồng thuận nông nghiệp, nông nghiệp trồng lúa nước là khởi đầu văn minh nhân loại. Cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước đánh dấu một bước tiến bộ vĩ đại trong đồi sống của cư dân Hòa Bình đã để lại cho chúng ta một niềm tự hào lớn.

1. Văn hóa Hoà Bình là nền văn hóa tiếp nối nền văn hóa Sơn Vi (huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú) thuộc hậu kỳ đá cũ, có tuổi từ 25.000 năm đến 15.000 năm trước ngày nay. Văn hóa Hòa Bình được quốc tế công nhận vào ngày 30 tháng giêng năm 1932, do Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Nền văn minh trồng lúa nước vốn là nền văn minh của cư dân Hòa Bình đã tạo được thế quân bình bền vững của nền văn hóa xóm làng (văn hóa truyền miệng, văn hóa chìm hay văn hóa vô ngôn), giữa con người và thiên nhiên Việt Nam trong khủng cảnh Đông Nam Á từ ngàn xưa (chứ không phải thiên nhiên Tàu, thiên nhiên Hoàng Hà)
2. Tiếp theo văn Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn), với những chiếc rìu mài lưỡi nổi tiếng, cả thế giới đều biết.
3. Tiếp theo vân hóa Bắc Sơn (từ trước 10.000 năm đến 6.000 năm trước ngày nay) là văn hóa Phùng Nguyên (Phú Thọ) cách ngày nay khoảng 4.500 năm, cội nguồn của văn minh sông Hồng. Đó là thời đại các vua Hùng dựng nước. Di tích văn hóa Phùng Nguyên được tìm thấy ở nhiều tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng.
4. Tiếp theo văn hóa Phùng Nguyên là văn hóa Đông Sơn, có niên đại sớm là 2820 năm cách ngày nay, với trống đồng, trong đó có trống đồng Ngọc Lũ nổi tiếng trên thế giới.

Trong lúc người Việt cổ xây dựng nền văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn thì cái nước mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Hoa mới được tạo dựng lên ở mạn trung lưu Hoàng Hà, và nền văn minh Trung Hoa ban đầu là nền văn minh Hoàng Hà với ranh giới ba tỉnh bây giờ: Sơn Tây (Quê hương của Đế Nghiêu), Hà Nam (quê Hạ Vũ, kinh đô của nhà Ân), Thiễm Tây (Núi Kỳ sông Vị, quê hương của nhà Chu từ 1122 đến 25 trước Tây lịch. )

Nếu đầu óc không bị điều kiện hóa bởi văn hóa Trung Hoa thì đứng ở góc độ nào –văn hóa bác học hay văn dân gian- cũng nhận thấy sự khác biệt giữ văn hóa Việt và văn hóa Tàu. Vì văn hóa theo nghĩa rộng là thiên nhiên –môi trường sống- được thích ứng, biến đổi bởi con người để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người. Nói cách khác, văn hóa là toàn thể các hình thái sinh hoạt về vật chất và tinh thần của con người trong cách thích ứng, tiếp xử với thiên nhiên và xã hội, lịch sử. Từ đó hình thành cách làm ăn (chăn nuôi theo bầy, sống đồi sống du mục hay trồng trọt đời sống định cư với xóm làng), cách ăn, mặc, ở, cách ứng xư, thái độ của con người đối với thiên nhiên, vũ trụ, xã hội và lịch sử. Như vậy, nói một cách đơn giản thiên nhiên –môi trường sống- và lịch sử là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng sâu rộng đối với con người trong việc hình thành văn hóa.

Sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa

Trong những điều kiện đó, văn hóa Việt Nam (văn minh sông Hồng) và văn hóa Trung Quốc (văn minh Hoàng Hà) khác nhau từ căn bản: Từ tiếng nói, lối sống, cách ăn, mặc, ở, lối suy nghĩ, cung cách ứng xử đến cội nguồn.
Phải chăng giới trí thức khoa bảng Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong khi tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tức nhìn lại chính mình để biết mình là ai? Đầu óc đã bị điều kiện hóa, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Trung Hoa : Nào thơ Đường, điển tích Tàu, tam cương ngũ thường v.v…, đôi khi quên đi cả thiên nhiên Việt mà họ đang sống như đã trình bày ở phần trên. Trái lại, người dân Việt nhận thấy sự khác biệt giữa Ta và Tàu dễ dàng.
Tiếng nói khác. Ngày xưa Tàu mặc quần, Việt mặc váy: cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không. Ngày nay, Ta mặc áo dào, Tàu mặc áo Xườn Xám của Mãn Thanh. Nón lá của ta khác hẳn nón vành ngang của Tàu. Tàu ăn cháo kê, bánh bao, dùng xì dầu. Ta ăn cơm, ăn xôi, ăn bánh chưng bánh dày, bát tương, chén nước mắm và đặc biệt đôi đũa là một sáng tạo của văn minh trồng lúa nuớc của Việt Nam. Từ địa hạt vật chất đôi đũa đã đi vào lĩnh vực tinh thần, triết lý Việt Nam: Vợ chồng như đôi đũa có đôi, chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho đều; vơ đũa cả nắm, thủ tục ly hôn ngày xưa là bẽ đũa. Thời trước Khổng Tử (Xuân Thu Chiến Quốc) cho đến nhà Tần (221 trước Tây lịch) Tàu ăn bốc (ăn bánh bột luộc, bánh bao). Khi Tần Thủy Hoàng chiếm miền Nam sông Dương Tử và từ đời Hán trở đi người Tàu bắt đầu tiếp thu đôi đũa của dân trồng lúa nước ở phía Nam.

Tàu ăn nhiều mỡ (xứ lạnh) ít rau. Ta ăn mỡ ít (xứ nóng) nhiều rau, đủ loại đủ màu, thường ăn rau sống nhiều hơn Tàu. Có thể nói là gì và hoa gì ăn được đều có mặt trong nồi canh của nông dân Việt: đói ăn rau, đau uống thuốc. Nghệ thuật nấu ăn của Trung Quốc là đổ mỡ vào thức ăn để chiên, xào. Trái lại nghệ thuật nấu ăn của người Việt là nấu, nướng và luộc nghĩa là rút mỡ từ thức ăn ra: điều này phù hợp với nghệ thuật ăn uống dùng ít mỡ trong bữa ăn theo tiêu chuẩn dinh dưỡng hiện đại.

Càng ngược dòng lịch sử sự khác biệt càng sâu sắc. Lưu vực Hoàng Hà là khu vực khí hậu đại lục, lạnh lẽo, khô hạn, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao, có nhiều đồng cỏ mênh mông thích hợp cho nghề chăn nuôi theo bầy, kéo theo đời sống du mục nay đây mai đó lang thang trên cánh đồng cỏ. Lưu vực sông Hồng là khu vực khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, nước dư thừa, nhiệt đầy đủ với những đồng bằng thích hợp cho việc trồng trọt sống định canh định cư trong xóm làng.

Đất trồng trọt của người Trung Hoa ban đầu ở cao nguyên và bình nguyên Hoàng Hà là hoàng thổ, do gió Tây mang lại. Đất trồng trọt của người Việt ở lưu vực các dòng sông là phù sa nâu, do sông cái sông con bồi đắp. Nông nghiệp Trung Hoa, khi người Hoa Hạ chiếm lưu vực sông Hoàng Hà, từ khởi thủy là nền nông nghiệp trồng khô. Nông nghiệp Việt Nam, từ ban đầu, là một nền nông nghiệp trồng nước, trồng lúa nước, sử dụng hệ thống ngập nước, ruộng Lạc theo nước thủy triều lên xuống, với hệ thống tuới nước đa dạng (gàu dai, gàu sòng, kênh ngòi).

Người Trung Hoa trồng túc –tiểu mễ hay kê- sau đó trồng cao lương, rồi trồng lúa mạch kiểu trồng khô. Người Việt trồng cây có củ (khoai các loại) và đặc biệt từ 6000 đến 7000 năm trước đây đã trồng lúa nước.

Kỹ thuật trị thủy sông Hoàng Hà, người Trung Hoa khơi sâu và khơi nhiều dòng chảy. Trái lại, kỹ thuật trị thủy của người Việt là đắp đê. Ít nước trên mặt, người Trung Hoa phải đào giếng để tìm nguồn nước. Người Việt sống ở vùng sông ngòi chằng chịt, đầm đìa, hồ ao khắp nơi, quen sử dụng nước trên mặt. Ở Việt Nam ao rất đa dạng: Ao nuôi cá, ao rau muống v.v… Ao đã đi vào cuộc sống tinh thần: Đêm qua ra đứng bờ ao; trúc sinh trúc mọc bờ ao; ao thu lạnh lẽo nước trong veo.

Người Trung Hoa ở nhà hầm, người Việt Cổ sáng tạo cái nhà sàn với mái cong độc đáo hình thuyền. Luật pháp của Tàu và Ta hoàn toàn khác nhau. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng thất bại Mã Viện tâu với vua Hán rằng luật Việt và luật Hán khác nhau đến mười điểm, và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt (Luật Hồng Đức đời Lê hoàn toan khác hẳn luật Tàu). Sẽ trình bày vào một dịp khác.

Tâm Việt Hồn Việt còn thì văn hóa Việt còn
Người còn tâm Việt, hồn Việt nhìn vào đời sống hàng ngày nhận ra ngay sự khác biệt giữa Tàu và Ta: Tiếng nói khác, cách chào hỏi khác (Tàu: Ăn chưa? Việt: Mạnh khỏe không?), cách mặc khác, thức ăn khác, kỹ thuật nấu ăn khác, lối xưng hô khác (Tàu: nị ngô như Tây phuơng toi, moi, you me; Ta: chú bác, cô, dì, cậu, mợ, anh, chị, em v.v…) Đi lại ở miền khô, trên vùng cao nguyên, gần thảo nguyên, thuận lợi cho việc chăn nuôi ngựa, người Trung Hoa thường dùng ngựa, xe cộ trong kỹ thuật giao thông. Quân đội lấy ưu thế là kỵ binh. Lúc đầu người Trung Hoa lấy Ngựa làm biểu tượng cho dân tộc Tàu, sau đổi thành con vật mình ngựa đầu rồng, rồi đến Cọp và sau cùng là Rồng. Dân tộc Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng, miền sông nước chằng chịt với hồ ao khắp nơi, gắn trồng trọt với chài lưới, thuyền bè các loại trở thành phương tiện giao thông chính. Thế cho nên, người Việt từ thượng cổ đã nổi tiếng lặn giỏi, bơi tài, giỏi cùng thuyền.Yếu tố sông nước trong môi trường sống đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Từ cái làm (trồng lúa nước) đến cái ăn (gạo, đạm thủy sản), chốn ở (nhà sàn, sống trên thuyền bè, chợ thuyền, nhà sàn trên nước) giao thông (thuyền bè, cầu phao) giải trí (múa rối nước) (quân sự thạo thủy chiến) cho đến cái chết (thuyền táng) đều liên hệ đến nước. Tổ tiên chúng ta lấy Tiên và Rồng làm biểu tượng của cội nguồn dân tộc Việt Nam.

Người Việt mà có nhãn quan Tàu
Người mang cặp mắt kiến Tàu –không còn tâm Việt, hồn Việt- nhìn vào đời sống của người Việt Nam thấy cái gì cũng là Tàu hoặc chịu ảnh hưởng Tàu hay từ Tàu mà ra. Chẳng hạn, đến như học giả Nguyễn Hiến Lê, một khi đã đeo cặp mắt kiến Tàu cũng không giữ đuợc thái độ khách quan trong nhận định: Đối với dân tộc Di, Địch, Khổng Tử không có tinh thần phân biệt chủng tộc, mà chỉ phân biệt văn hóa như khi ông bảo không nhờ công của Quản Trọng thì người Hoa Hạ đã bị gióc tóc mặc áo có vạt bên trái rồi (Nguyễn Hiến Lê), Khổng Tử, nxb Văn Nghệ năm 1992, tr. 188, dòng 11 đến 15). Văn hóa là linh hồn của một dân tộc. Vậy, kỳ thị phân biệt văn hóa mà không kỳ thị dân tộc, kỳ thị chủng tộc thì sao được?
Hơn nữa, Khổng Tử xem dân tộc Di tức Bách Việt là dân mọi rợ trong lời phát biểu của ngài: Cho đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông ấy. Không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và cài áo bên tả như người mọi rợ rồi (Nguyễn Hiến Lê, lịch sử văn minh Trung Hoa, nxb Văn Nghệ năm 1993, trang 26, dòng 17 đến 19). Xem dân tộc Di là dân tộc mọi rợ mà cho rằng Khổng Tử không có tinh thần kỳ thị chủng tộc được sao?
Điều đó cho thấy trí thức khoa bảng Việt Nam, một khi đã có nhãn quan Tàu thì các ông thánh Tàu có miệt thị tổ tiên mình cũng cố tìm cách đổi chữ, hoặc bóp méo đi hay thay đổi lối suy nghĩ để nuốt cho trôi liều thuốc đắng ngõ hầu bảo vệ những thần tượng mà mình đã trót tôn thờ từ lâu.
Đối với 95% người dân Việt chất phác, hiền lương, thiện lành thì không có vấn đề. Còn giới trí thức khoa bảng trẻ Việt Nam, không đọc được chữ Tàu, hãy thận trọng trong khi nghiên cứu, tìm hiểu về Trung Hoa, phải đề cao cảnh giác những trí thức khoa bảng Việt Nam rành chữ Hán có thể họ bóp mép sự thật –vì vô tình bởi đầu óc bị điều kiện hóa bởi văn hóa Tàu hay có mưu đồ- sẽ đưa chúng ta vào con đường nô lệ tư tưởng Tàu với cách học nhập nô xuất nô. Như trên đã trình bày nô lệ tư tưởng là nô lệ từ trong tim óc, tức không còn tâm Việt hồn Việt. Từ đó phát sinh ra tinh thần vọng ngoại, sợ ngoại, trọng ngoại và ỷ ngoại để rồi giao sinh mệnh của dân tộc và đất nước mình cho ngoại bang. Là người Việt Nam, nếu không sáng suốt trong suy nghĩ, trong hành động, trong cách học về Trung Hoa học vô tình chúng ta sẽ trở thành đoàn quân gián điệp văn hóa cho Trung Quốc.

Đã đến lúc chúng ta cần trở về với chính mình để hiểu rõ chân xác chính chính mình về mặt tri thức và tâm thức

March 16, 2008

Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là “Bọn phản động” của chế độ cộng sản độc tài đảng trị !

ntn.jpg

Từ khi  có mày vi tính  từ lúc biết đên internet tôi có biết đọc biết lên mạng tìm thông tin báo trí thì tôi đã từng tháy có những vấn đề về an ninh chính trị được nhà nước nói rất chung chung, nhưng là một thanh niên mới lớn lúc đó tôi mới chỉ nghĩ rằng nhà nước ta làm vậy là để  “bọn phản động” không tìm hiểu được tình hình đất nước đẻ lấy cớ xuyên tạc sai sự thật vè tình hình dất nước (lúc đó tôi còn là một người đang được ru ngủ trong những tuyên truyền sai trái của các cơ quan báo chí trong nước  nhằm che giấu nhân dân và làm cho thanh niên chúng tôi nghĩ sai lạc về các nhà hoạt động vì tự do dân chủ cho đất nước )

       Nhưng kể từ khi tôi  biết vượt tường lửa để vào trang website trên mạng có tên gọi là : http://saigonbao.com  ” để đọc và̉  tìm hiểu “BỌN PHẢN ĐỘNG” nó thế nào, mặt ngang mũi dọc và các tư tưởng gọi là phản cách mạng, phản động mà các cơ quan báo chí trong nước vẫn ra rả đêm ngày vu cáo bêu xấu họ ra sao ? Và nhất là sau 3 cuộc mitting của học sinh, sinh viên cũng như các tầng lớp thanh niên và nhân dân ở  Hà nội mà tôi đã có may mắn được tham gia 2 cuộc, thì tôi đã hiểu thế nào là “BỌN PHẢN ĐỘNG” chống đảng và nhà nước Việt Nam XHCN rõ nhất. Họ chính là những người yêu nước, thương dân thực sự, họ sống có lương tâm và trách nhiệm với Tổ quốc và nhân dân thực sự. Họ không như các cơ quan báo chí trong nước vu cáo và bôi bác, họ là những con người có nhân cách, đạo đức ngoại trừ một vài kẻ cơ hội vụ lợi cá nhân chà trộn  để kiếm chác trong đó mà chắc rồi cũng bị lộ mặt mà thôi. Tôi đi biểu tình chông nhà cầm quyền Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ nước ta, chống lại sự bành trướng của bọn Trung Cộng đại Hán thì bị các chú công an thuộc đơn vị PA – 25 của cả bộ công an, lẫn sở công an tỉnh Yên Bái và thành phố Hà Nội đã gọi chúng tôi là những thành phần sai lệch về nhận thức và tư tưởng !!! 

      Ngày 16 /12/2007 tôi tiếp tục đi biểu tình về thì bị các chú an ninh bảo vệ chính trị đi theo dõi làm như tôi là tên tội phạm hình  sự. Tôi thiết nghĩ và băn khoăn tự hỏi tại sao người dân trong nước chỉ vì bày tỏ tấm lòng yêu nước mà lại bị coi là sai lệch tưởng, lại bị chính bộ máy công an của nhà nước và đảng ta coi là có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị ???

         Ngày 23/12/2007 tôi đi biểu tinh tiếp nhưng do các bạn sịnh viên và học sinh các trường đại học và cao đẳng, trung cấp đã bị nhà trường đe doạ sẽ đuổi học nếu cố tình tiếp tục đi biểu tình chống Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ nước ta thêm lần nữa. Tôi nghĩ tại sao lại có chuyện thật ngược đời chỉ vì yêu nước chống lại kẻ thù đang xâm chiếm lãnh thổ thiêng liêng của chúng ta lại bị đuổi học do nhà trường tuân theo chỉ đạo của chính quyền và công an đuổi không cho tiếp tục theo học nữa ?

      Ngày 23/12/2007 mặc dù chỉ có 4-5 sinh viên và khoảng hơn 30-40 đồng bào dân oan các tỉnh đang có mặt tại Hà Nội để khiếu kiện cũng đi biểu tình chống lại sự cướp đoạt một phần lãnh thổ nước ta, cụ thể là các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa bị bọn Trung Cộng mấy chục năm qua xâm chiếm. Tuy số người ít thế nhưng tôi cùng đồng bào dân oan vẫn đi biểu tình phản kháng và hôm đó tôi đã hiểu thế nào là “mời làm việc” của công an Việt Nam!!!

      Vâng thưa các bạn, tôi đã được đọc trong cuốn Từ điển bách khoa toàn thư của ngôn ngữ Việt nam để tìm hiểu thế nào là được “mời”.  Có nghĩa là ta có thể đi hoặc không đi nhận lời mời ấy của phía đối tác mời ta, thế nhưng công an Việt nam mời bằng cách là kéo tay, là bẻ tay từ trước ra sau rồi lôi đi như bắt tên tội phạm quả tang vậy, thế là “tao mời mày” rất lịch sự rồi đấy. Thế rồi sau những ngày đó tôi được các chú, các anh công an họ̣ chăm sóc đặc biệt suốt từ 0 h 30 sáng đến đêm khuya hôm sau. Tôi luôn luôn và thường xuyên được công an  đến nhà kiểm tra chứng minh thư nhân dân và mọi giấy tờ tuỳ thân khác, rồi giấy tạm trú, tạm vắng, hộ khẩu….rất chi là phiền phức kể cả khi không có mặt tổ trưởng dân phố ( theo tôi cái này chỉ áp dụng cho tội phạm nếu là dân thường phải có tổ trưởng dân phố đến chứng kiến ). Họ nói họ phải làm như vậy vì tôi đã tiếp xúc với các nhà dân chủ ở Hà Nội cực kỳ nguy hiểm cho chế độ XHCN hiện nay trong nước như Cụ Hoàng Minh Chính, bác Lê Hồng Hà, anh Nguyễn Khắc Toàn, nhà văn Hoàng Tiến, ông Nguyễn Thanh Giang, chị Dương Thị Xuân, chú Nguyễn Xuân Nghĩa, ông Nguyễn Văn Tính, anh Lê Thanh Tùng…..và  rất nhiều người khác nữa…….

      Thế rồi cũng từ đó tôi đã được công an cả trên Hà Nội lẫn tỉnh Yên Bái họ chăm sóc hết sức đặc biệt. Ngày 19-1- 2008 chúng tôi định tổ chức 1 cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lược 1 lần nữa trước đại sứ quán Trung Quốc thì tôi được họ đã nói lại với tôi là sẽ dùng biện pháp mạnh với tôi nếu cố nh. Tôi nghĩ chắc là họ chỉ đưa lên nhà trường cảnh cáo khiển trách là căng lắm chứ họ làm gì được mình vì mình không vi phạm pháp luật. Bởi vì trong hiến pháp hiện nay có cho phép công dân được biểu tình míttinh tự do cơ mà.  Thế nhưng thật oái oăm, 3 ngày sau đó tôi đã bị mấy anh thanh niên mặc đồ thường phục hay theo dõi tôi trên mọi ngả đường tại thủ đô Hà nội rất chặt chẽ không bỏ xót một cử chỉ nào của tôi, kể cả lúc đi vệ sinh cá nhân.  Theo tôi nghĩ thì chắc chắn đó là công an Viêt Nam, vì nếu là dân anh chị giang hồ khi theo tôi để trả thù cá nhân thì họ đã ra tay với tôi những lúc đêm vào 12 h khuya khi tôi đi làm về họ đã thẳng tay  rồi, nhưng phải để sau ngày 19 -1 -2008, tức là tới 3 ngày sau đó họ mới giở võ là quệt xe vào xe đạp của tôi để lấ́y cớ đánh tôi gãy 1 chiếc răng hàm số 7 bên phải và sau này nữa họ đã cướp cái máy điện thoại di động của tôi do đã dùng nó để tường thuật mọi diễn biến tại chỗ ở mảnh đất Toà Khâm Sứ Hà nội khi tôi đã cùng ăn cùng ngủ với bà con giáo dân cầu nguyện đòi đất ở đây. Nhưng thôi chuyện đó tôi có thể bỏ qua vi họ dùng biện pháp hèn hạ để đánh vào lòng yêu nước của tôi, nhưng cho dù họ có làm vậy thì lòng yêu nước và yêu dân chủ của tôi vẫn không giảm mà càng tăng cao, càng mài sắc hơn thế nữa mà thôi !!!!

     Chính “họ” đã giúp tôi hiểu được là thanh niên Viêt Nam hiện nay trong nước không được ngủ nũa hãy đứng lên, bởi vì vận mệnh đât nước đang nằm trong tay thế hệ̣ trẻ như những người thuộc thế hệ chúng tôi. Chính “họ” đã giúp tôi có 1 quyết tâm phải theo con đường đấu tranh ôn hòa để có 1 đất nước dân chủ, tự do và nhân quyền thật sự nhất là quyền được tự do ngôn luận và cuối cùng là có nền chính trị đa nguyên, đa đảng trên đất nước nghèo khổ này.

     Ngày 27-1-2008, tôi có hay tin đồng bào công giáo biểu tình cầu nguyện trong hòa bình tại khu vực tòa Khâm Sứ cũ tại số 42 phố Nhà Chung quận Hoàn Kiếm, Hà nội để đòi lại đất khu vực đó mà trước kia là của tòa Tổng giám mục Hà nội. Khi tôi đến đó hỏi thăm đồng bào, tôi cũng nói với đồng bào là tôi là một kẻ ngoại đạo nhưng tôi ủng hộ sự bình đẳng tôn giáo tối đa, vì cảm phục lòng tin với Chúa của đồng bào tôi thức cả đêm cùng đồng bào sáng hôm sau tôi về đi làm nghỉ trưa tôi lại ra với đồng bào giáo dân để chuyển máy điện thoại cho một số  bà con giáo dân ở đây được trả lời phỏng vấn 1 số đài báo nước ngoài và đồng bào công giáo ở hải ngoại. Chỉ vì có vậy thôi mà trên đường về nhà tôi đã bị 1 thanh niên anh  ta tự xưng là công an nhân dân Việt Nam đã cướp máy điện thoại của tôi. Hôm đó tôi còn rất nhớ anh công an đó có tên là Nguyễn Văn Tùng có số hiệu là abcdcv 052 (số abcv : do là tôi không nhìn rõ được), khi tôi cố đòi anh phải đưa tôi về̀ trụ sở làm việc và nói anh muốn thu máy điện thoại của tôi thì phải có giấy tờ và lập biên bản đàng hoàng và phải giao cho tôi 1 bản thì liền được anh ta trả lời anh ta làm vậy là do sự chỉ đạo của cấp trên ở sở công an Hà Nội mà không cần giấy tờ gì, không cần trụ sở gì hết, thích là tao có đủ thẩm quyền để tịch thu của mày có thế thôi muốn đi kiện ai thì kiện, tao thách mày đấy !!!!

      Ngày 31-1-2008 tôi ra thăm đồng bào công giáo và sau đó tôi có qua nhà anh Nguyễn Khắc Toàn 1 nhà  tranh đấu dân chủ mà tôi đã biết tên tuổi và đã đọc các bài viết đòi dân chủ hoá đất nước của anh đã lâu rồi. Thì  tôi thấy nhà anh Toàn đang bị  công an quản chế có chốt canh gác chặt chẽ ngay tại gia đình. Tốp công an làm việc ở đó không cho tôi gặp được, nên tôi sau đó tôi ra về thì liền bị  2 anh công an đi theo và nói họ là công an Hà Nội thuộc phòng an ninh chính trị cần nói chuyện với tôi. Thế rồi họ lôi tôi vào công an phường Tràng Tiền gần đó để tra khảo mối quan hệ và những hoạt động của tôi tại Hà Nội. Trong khi thẩm vấn như vậy thì một công an to cao tên là Minh đầu húi cua kiểu đầu đinh đã đánh tôi liên tiếp rất đau. Anh ta bắt ép tôi trở lại nhà anh Nguyễn Khắc Toàn để xin tài liệu về dân chủ nhân quyền để lấy cớ khám nhà và bắt giam anh ấy. Tôi giả vờ hợp tác và đã quay trở lại thông báo cho anh mọi diễn biến để anh đề phòng cảnh giác với họ. Đến buổi chiều cùng ngày tôi đã lên tầu và trở về thị xã Yên Bái, từ đó công an trên bộ chỉ đạo công an tỉnh liên tục gây áp lực nặng nề với tôi như buộc bố mẹ tôi phải cắt đứt các nguồn tài chính hỗ trợ tôi theo học trên Hà Nội. Tôi thật buồn vì gia đình chưa hiểu những gì về đất nước và thế nào là sự cần thiết của công cuộc đòi dân chủ để canh tân xứ xở còn lạc hậu và nghèo khổ này. Đối với tôi thì niềm tin vào công cuộc tranh đấu đòi lại các quyền Con người cơ bản cho cả dân tộc này luôn luôn là chính nghĩa, là ngọn lửa vĩnh hằng rực cháy không bao giờ tắt cho dù còng nhiều khó khăn thử thách và gian nguy !!!!

Viết xong trong những ngày bị công an Yên Bái và công an Bộ từ thủ đô Hà Nội xuống thẩm vấn căng thẳng

Thị xã Yên Bái đầu tháng 3 năm 2008

 Công dân Nguyễn Tiến Nam

Tổ 24, phường Yên Thịnh, thị xã Yên Bái, tỉnh Yên Bái

Email liên lạc : daibangxanhyb@gmail.com  

Vượt tường lửa vào sgbao:
http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://saigonbao.com/

Older Posts »

Create a free website or blog at WordPress.com.