Diễn đàn Paltalk TiengNoi TuDo Cua NguoiDan VietNam

April 30, 2008

Lệ nến

Cao Trần 


Hai mươi chín tháng Tư năm 1975, ba tôi đưa cả nhà xuống ở chung với nội. Các cô, chú và anh chị em tôi cũng vậy; tất cả đều về với nội. Ai nấy đều có chung một ý nghĩ: nếu chết, thì cùng chết. Nhưng thật may mắn, đại gia đình chúng tôi không ai chết cả, sau cái ngày gọi là “giải phóng” miền Nam. Dường như lý do duy nhất của việc chúng tôi được sống, giống như triệu triệu đồng bào khác, từ Quảng Trị đến Cà Mau, là để chịu cảnh đọa đày, đói khát sau cuộc “đổi đời”, là để khóc những giọt nước mắt phân ly sau ngày đất nước thống nhất, là để trở thành nô lệ sau khi những kẻ nhân danh độc lập và tự do để gây hấn đã chiến thắng.

Ngày đó, tôi còn rất nhỏ, cỡ tuổi đứa con gái tôi hiện nay. Cuộc ly tán đầu tiên mà tôi chứng kiến là hình ảnh ba tôi, trong bộ đồ đen của cán bộ xây dựng nông thôn, khăn gói lên đường vô trại giam K4 (Long Khánh) để “học tập cải tạo”. Tôi không nhớ lúc đó má tôi và hai anh em tôi có khóc khi chia tay ba tôi hay không. Nhưng tôi nhớ mãi những giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt má tôi một tháng sau đó, vào cái ngày bà chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn chờ ba tôi về. Ba má con chúng tôi ngồi chờ đến khuya. Và ba tôi không về. Và má tôi khóc. Và hai anh em tôi nhìn nhau ngơ ngác. Những giọt nước mắt đêm hôm đó của má tôi đã dạy cho tôi bài học đầu tiên về cộng sản – bài học về sự dối trá.

Khi người đàn ông của gia đình bị cầm tù, thì người đàn bà phải ra đường để kiếm tiền đi thăm nuôi và kiếm miếng ăn cho những đứa con thơ dại. Vậy là má tôi đi Cần Thơ buôn gạo, mỗi tuần một chuyến, mỗi chuyến vắng nhà khoảng hai, ba ngày. Hai anh em tôi xuống ở với ông bà nội. Vào những ngày má tôi đi Cần Thơ, chiều nào, anh em tôi cũng ra đứng trước cửa nhà ngóng má tôi về, ngóng đến khi nào đường phố không còn một bóng người thì mới thôi, và vô nhà khóc ngất cho đến khi ngủ thiếp đi, giữa giọng ru khàn đục của ông nội tôi. Vậy mà có lần nọ, tôi ngóng má tôi suốt mười lăm ngày mà vẫn không thấy bà về. Tôi chỉ còn biết kêu ba, kêu má và khóc. Ông bà nội tôi cũng khóc. Má tôi, cùng với tất cả những người đi trên chuyến xe đò buôn chuyến, đã bị bắt giam ở Cần Thơ để thẩm tra, vì trên xe có mấy tờ truyền đơn, không biết của ai, kêu gọi mọi người đứng dậy chống lại bạo quyền. Lần này, những giọt nước mắt của chính tôi đã dạy cho tôi bài học thứ hai về cộng sản – bài học về sự độc ác.

Sau lần đó, má tôi không dám đi buôn chuyến nữa, mà ở nhà vác chảo dầu ra ngã tư đường chiên đậu hủ để bán, sau khi đã bán hết tất cả những tài sản có thể bán được trong nhà. Được một tuần lễ, mấy bà cán bộ hội phụ nữ liền đến nhà làm “công tác tư tưởng” với má tôi, không cho má tôi bán đậu hủ kiểu “tư bản tư nhân” như vậy nữa, và buộc má tôi, mỗi sáng, phải khiêng bếp lò và chảo dầu đến “Tổ hợp Đậu hủ” để chiên đậu hủ, rồi giao nộp “sản phẩm” đậu hủ chiên cho Tổ hợp, để đổi lấy một khoản tiền công chết đói mỗi cuối tháng. Có lần, vì quá uất ức, má tôi lặng lẽ khóc. Và những giọt nước mắt của má tôi, một lần nữa, đã dạy cho tôi bài học thứ ba về cộng sản – bài học về sự ngu dốt.

Má tôi chiên đậu hủ cho đến khi ba tôi được ra tù. Sau đó, ba má tôi làm đủ mọi nghề để nuôi anh em tôi ăn học hết trung học, rồi đại học, giữa một xã hội mà sự kỳ thị lúc nào cũng được dành sẵn cho những kẻ như chúng tôi, công dân của chế độ cũ, ngụy dân của chế độ mới. Đối với tôi, những giọt nước mắt của má tôi, của ông bà nội tôi, giống như những giọt lệ nến, đã rơi xuống, không phải để vùi tắt, mà để nuôi dưỡng và làm bừng lên ngọn lửa lúc nào cũng hừng cháy trong trái tim tôi.

Trên khắp nước non này, suốt ba mươi ba năm qua, giống như má tôi, nhiều bà mẹ đã khóc. Mỗi giọt nước mắt là một bài học cho những đứa con. Mỗi giọt nước mắt làm bừng sáng một ngọn lửa trong trái tim của những đứa con. Hãy khóc lên đi, hỡi những bà mẹ Việt Nam, cho trí não của những đứa con Việt Nam không còn bị tối ám trước sự lừa mị của bạo quyền, cho thân thể của những đứa con Việt Nam không còn run sợ trước sự cuồng bạo của bạo quyền, và cho trái tim của những đứa con Việt Nam biến thành lửa thiêng thiêu cháy bạo quyền. /.

April 14, 2008

TÔI THẤY và NGHE ĐƯƠC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM V.N sau 32 năm dưới chế độ CS

PHÓ THƯỜNG DÂN –


Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó – mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi , tai nghe tận chỗ – ghi lại môt cách trung thực .                                                                                                                  

Tôi thấy bộ mặt Saigòn đổi mới với  : Những khách sạn 5 sao , 4 sao lộng lẫy . Đổi mới với những nhà hàng ‘‘ vĩ đại ’’ trên các tuyến đường du lịch . Với  những trung tâm ‘‘thư giản’’ sang trọng, quý phái cở  câu lạc bộ  Lan Anh .Với  những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội . Với những trường Trung học tư thục mangtên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ,  giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ – 600US$ đến 1000US$ /tháng . (giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con?)                                                       

 Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử ‘‘đỏ’’, các nhà giàu mới – thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau , các quan chức đỏ đô la đầy túi . Họ đến đây để ‘‘thư giản’’, uống rượu , đánh bạc ,cá độ và tìm gái . Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP , XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ. Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XỌ Vụ MPỤ18 cá độ hàng triệu US $ đã bị phanh phui..là một thí dụ cụ thể . Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi…‘‘ lắc’’ suốt đêm .Vài hôm sau – đâu cũng vào đó 

Tôi cũng thấy Sàigòn- người,xe và phố xá dầy đặc ,nghẹt thở – vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự – ở xa xa,có cái trông giống như chiếc hộp quẹt .. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại .Vật liệu nhập cảng đắc tiền . Nhà trong hẻm – phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi ,nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên.. ,lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…  

Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ , ngày đêm  đinh tai nhức óc và  3.000.000 chiếc Honda – phun khói mịt mù – chưa kể đến xe hơi..Và hệ thống cống rảnh lạc hậu ..mỗi khi trời mưa lớn – nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa . Hệ thống đổ rác còn lạc hậu.. không đáp ứng nổi  nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhun nhúc như kiến.. Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ ..hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra . Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận,không dám một lời phản kháng . Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1000 đô la Mỷ ..chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế , rẻ mạt.. Thuốc lá và bia – bia nội,bia ngoại – có đủ .. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn . Đảng viên,cán bộ – giai cấp thống trị –  nhậu .. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu . Hút thì khỏi nói .. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị – đã lột xác – không còn quấn thuốc rê,bập bập phà khói mịt mù nữa – mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5 , Craven A,trong túi . Lãnh đạo hút,cán bộ hút , dân chúng hút – thậm chí con nít 9,10 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở . Cán bộ lớn cũng âu phục  cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng.. nhưng bộ răng hô ,mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc .. cũng không dấu được  nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh .                                                    

 Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng ‘‘ tiếm công vi tư’’ lộng hành,ngang ngược của Công an  đến độ dân chúng quen thuộc ,xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ .. bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên , xây  nhà gạch dùng làm quán cà phê .. Chưa thỏa mãn – ban đêm  còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng .. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy . Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu – nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ ,ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ – thì rõ .     

Còn nhiều.. rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công,lấn lề đường nhan nhãn  ở khắp Saigòn . Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể : Một công thự tại vườn Tao đàn ( có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) – mặt tiền ngó vào trong – mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ ) – bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà , xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du , trị giá mỗi căn ,nhiều trăm ngàn mỷ kim – ngon ơ !  Tương tự như vậy – ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ .. trước  sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 – phố thương mãi,quán xá la liệt  chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo ,chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng ..Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ ,bây giờ là câu lạc bộ Lao động – nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo ,giày vớ thể thao .. buôn bán ầm ỉ ,náo nhiệt suốt ngày.                                                                                                        

Công an chiếm đất công , xây nhà tư . Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe , bịt kín cả lối đi vào nhà .  Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn .Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai?Tất nhiên là phải thưa với công an.Không lẽ công an xử công an ?  Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : ‘‘Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng . Không thể nào chống tham nhũng được  vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao ? ’’ ( Nhật ký ‘‘Rồng rắn’’ của Trần Độ ) .    

Nón cối,nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn –  đã biến mất.. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt  của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi,Lê thánh Tôn,Tự do những ngày trước 75 nữa . Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ – mũi và miệng bịt kín bằng ‘‘khẩu trang’’, găng tay dài đến cùi chỏ ,cỡi Honda chạy như bay .. trên đường phố .                                

Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống …những bà cụ già,những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường.. những anh  phế binh cụt tay,cụt chưn,lê lết trên một miếng ván gổ …đi bán vé số ( một cách ăn xin trá hình)

Bộ mặt Sàigòn ‘‘đổi mới’’ bằng những khách sạn lộng lẫy , những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng , những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại , những vũ trường cực kỳ tráng lệ , những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền .. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa .. những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố – nhiều người chóa mắt .. choáng váng , cho là ‘‘Việt Nam bây giờ tiến bộ quá’’. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ  : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục , mặt  đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng.. Lợi tức đầu người của Việt Nam – theo thống kê của báo The Economist – bằng : 555 US$ năm 2007 ( Hà Nội bốc lên 730 US $ )chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh . So với các nước láng giềng : Thái Lan : 2550 US$ – Phi luật Tân : 1040US$ – Nam Dương : 1160US$ .Tân gia Ba 24840US$ .( The Economist World, năm 2007 – p.158,176,238 ) – Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa . Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy – nếu đặt câu hỏi : Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn ,những biệt thự lộng lẫy  kia ? – thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ.  Và ở thôn quê – giai cấp giàu có bây giờ là ai ? giai cấp địa chủ là ai ?  Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do , mua bán làm ăn mà có ? ?                                                                                                                                                 

HIỆN TƯỢNG NGƯƠI  BẮC  XA HÔI  CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU  TOÀN  BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MAI  QUAN TRONG Ở  SAIGÒN –  KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU  Ở MIỀN  NAM..                                                                                                      

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng ‘‘đánh Tây,đuổi Mỷ’’ – cho dù che giấu, lấp liếm , giải thích thế nào chăng nữa – thì dân miền Nam ( gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) vẫn thấy một sự thật.  Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập , chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàgòn . Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn .. và các khu phố sầm uất nhứt .. vào những hiệu buôn lớn  để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản – từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong –  cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc . Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài,Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai,tiệm Émile Bodin của bầu Yên,  nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc ,Phạm thị Trước .. hiện nay ,một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại ..nhưng  đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn  lớn, tiệm phở ,công ty thương nghiệp,dịch vụ lớn,  những tiệm buôn bán dồ nhập cảng  v.v.. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ .. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn.. thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN . (Tất nhiên là vợ con,thân nhân cán bộ lớn ) .Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS ( do các cô tự nói ra )  . Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ – dĩ nhiên – vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc..Cán bộ,công nhân viên trọng yếu – cũng đều là người Bắc – trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết – theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam – thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc .                                                                                                                                          

Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới – từ Trung ương đến địa phương – từ Tỉnh thành đến quận lỵ,thị trấn , làng xả gần – đều do đảng viên người miền Bắc XHCN – nắm giữ .Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn – điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại.. chủ nhân cũng là người Bắc XHCN . Từ chính trị đến văn hóa , từ giáo dục đến truyền thông,từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi,sản xuất – cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ .                   

Đó là sự thật trước mắt  ai cũng thấy . Còn những vàng bạc, kim cương,đô la ,tài sản tịch thu,chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản,cải tạo công thuơng nghiệp –  nhà cửa của tù cãi tạo ,của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại , những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức – tài sản những người thuộc diện tư sản – toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung,miền Nam – được đem đi đâu ?  – Không ai biết .     

Thông thường – những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ – để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ.. Thế nhưng – sự thật trước nhứt – là các ông đem chia chác nhau . Chia nhau một cách  hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN ( Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang) .Ông lớn lấy tài sản lớn .Ông nhỏ – nhà cửa nhỏ . Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4,5 căn nhà . Ở không hết … đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy – vì lo sợ cái gì đó  –  bèn đem ‘‘ bán non’’ những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước . Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ . Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu – không ngoại lệ . Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại – là những biện pháp vá víu . Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN .                      

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp ,tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá ..đều bị ‘‘ giải phóng’’ ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách : Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở ,cho cán bộ vào ở chung( chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi ) , đổi tiền để vô sản hoá người dân , khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn , cuối cùng chịu không nổi , phải bán nhà với giá rẻ bỏ..để  vô hẻm ở , ra ngoại ô hoặc về quê … Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN  tràn vào ‘‘mua’’ nhà Saigòn với  giá gần như cho không…và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn .                                           

Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô,AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên ‘‘xẻ dọc Trường Sơn’’ bằng máu , nước mắt và xác chết … vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là ‘‘giải phóng’’ nhân dân miền Nam – nhưng sự thật khó chối cãi được –  là vào để  chiếm đoạt tài sản, đất đai , của cải, đuổi dân Saigòn ( gồm cả người  Nam lẫn  Bắc theo chế độ Tự Do ) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau – để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la ,vàng bạc kim cương đầy túi – những ông chủ công Ty có tầm vóc , những địa chủ đầy quyền lực .. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc.( Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình) . Như vậy hành vi nầy gọi là gì ?  Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh – một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình  – các ông tự gọi mình đi .                        

Đến thời ‘‘mở cửa’’ – cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn..gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương – đô la khách du lịch ngoại quốc , bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc , các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá , xây cất đại công tác.  Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế  – những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt .. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn.. no bóc ké..   Nhiều công trình vừa xây cất xong ..đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu . Một thí dụ diển hình : Một bệnh viện gần chợ ‘‘ cua’’ Long Hồ – quê hương của Phạm Hùng – nước vôi còn chưa ráo .. đã muốn sụp . Hiện đóng cửa không sử dụng được.     

 Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực , chiếm hữu nhà cửa,phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt – là một sự thật không thể chối bỏ . Cán bộ lớn  đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực – những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử . Trong khi dân chúng miền quê – nhứt là miền Nam – ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên ..  Khoản cách giàu nghèo càng lớn – đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt ..Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực .

Nhà văn – bác sĩ Hoàng Chính – gọi thời kỳ sau 75 là thời ‘‘Bắc thuộc’’ :

  – ‘‘Năm Bắc thuộc thứ 2 : Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh .
– Năm Bắc thuộc thứ 6 : Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn  giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.
 – Năm Bắc thuộc thứ 12 : Trong ngục thất quê hương ấy , có những bộ  xương thôi tập khóc cười ..’’

Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự  đô hộ hà khắc và tinh vi.

BÔ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt,  nghe tận nơi , mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản . Để được trung thực – người viết ghi những điều thấy và nghe – không bình luận – tại những nơi đã đi qua . Thôn quê miền Nam – những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện . Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối . Đường sá có tu sửa phần nào ..Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn ( đường xóm Cái nứa,Cái chuối xã Long Mỷ VL) ,xe Honda và xe đạp chạy qua được. ‘‘Cầu tre lắt lẻo’’ , cầu khỉ  được thay thế bằng cầu ván ,cầu đúc ( vật liệu nhẹ ) . Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cáibè, Cái răng ) nay không còn thấy nữa . Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ – chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn – còn nhiều nhà lá nghèo nàn . Tương tự như vậy – dọc theo bờ sông Long hồ – một số nhà gạch nhỏ mới cất ..xen kẻ những mái lá bạc màu . Vùng Trà ốp,Trà cú (Vĩnh Bình) , chợ Thầy Phó (Vĩnh Long ) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá,nhà tôn . Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi..          

Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc,Hà Tiên,Rạch Giá ,Cần Thơ . Nhìn chung – có một sự thay đổi rõ rệt . Nhà cửa ,hàng quán dầy đặc , động cơ ồn ào,người ta chen chúc .. Cảm giác chung là ngột ngạt,  khó thở . Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất .. hoặc thụt sâu vào trong , không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai hoằng, mát mắt vùng Cái Bè ,An Hữu , vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương ..

Dưới sông – từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang –  hai bên bờ toàn là nhà sàn ,phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2,3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau . Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống,phóng uế – cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi . Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá .. Basa, cá điêu hồng v.v..  ở dọc bờ sông khá dài ..Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh . Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu – người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A , chèo ghe tam bản , bơi xuồng như thời trước 75 nữa .. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng,được trả lời : ‘‘ Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi !’’  Tôi hỏi thêm : ‘‘ Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm , nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi,đánh đập .. các cô gái nầy không sợ sao ông ? – ‘‘ Biết hết – mấy cổ biết hết ,báo Tuổi  trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch . Cô khác thấy vậy ham . Phần nghèo ,phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may.’’  Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn,Đài Loan hiện không ai là không biết .

Tờ Tuổi trẻ  – số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi – trong bài : ‘‘ Nỗi đau từ những con số’’- có nói đến số phận của 65000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già,tàn tật đui mù , làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy : ‘‘Tại một tổ chức kết hôn lậu,hàng chục cô gái đang ‘‘bày hàng’’ để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm,ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình ’’ Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007 ,viết : ‘‘Hơn 60 cô gái ,tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển .Các chàng rể  Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ ,chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái .Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng .Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6,10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện .Thậm chí – những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập  gây náo loạn cả xóm’’.           

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ :Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học ,để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm ,được anh trả lời : ‘ ‘‘ Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn . Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng . Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa.’’. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ .. khoản chừng 18 đến 20 ..đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn-  có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện – tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề .                

Song song với tổ chức chánh thức ,còn có một tổ chức ‘‘ môi giới hôn nhân lậu’’- sự thật là một tổ chức buôn người ,chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái , nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để  bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia,Thá i Lan ,Ma cau..  để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục..các cô gái làm điếm .. hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ .. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay  che chở ăn chia của Công An . Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần  –  thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh , quận 11..Sàigòn.

Cho dù chánh thức hay lậu.. hậu quả cũng gần giống nhau . Chánh thức thì có giấy phép , có công an làm thủ tục , chánh phủ thu tiền lệ phí . Lậu thì lén lút  với sự che chở của Công An . Hậu quả gần giống nhau . Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan , Đại Hàn bị ngược đãi,đánh đập tàn nhẫn – ban ngày làm nô dịch.. ban đêm phục vụ tình dục.. rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại ..( Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng )  Còn lậu thì .. bán thẳng vào ổ điếm .  Biết bao nhiêu thảm cảnh .. biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại .Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu ..lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời !

Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ,ngược đãi, đánh đập.. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không ?  Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện ? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở ?  Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt..?

Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người – những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN . Họ còn phải vay tiền mua sắm , ăn diện , hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan , Đại Hàn ?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp . Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau : Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt,chương trình công nghiệp hóa,đô thị hoá..vừa bãi,không được nghiên cứu cẩn trọng..  đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng..Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào .. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác.. Các cô gái miền Tây.. quẩn bách vì không có việc làm  kinh niên – cuộc sống vô vọng mịt mờ – có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến ..khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ .Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75 ) – những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ .. thang giá trị bị đảo lộn.. nên họ không đặt nặng danh dự,sĩ diện như thời  trước.. Do vậy – khi bị dồn vào đường cùng .. họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn.. Nhưng động lực chánh là nghèo..  ;

NGHÈO…….   
  

  Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan … để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực , vô vọng không lối thoát..  Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) – vựa lúa nuôi sống cả nước – sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy – nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH ) ?  Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng  của Tổng cục thống kê Việt Nam – thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998 : ĐBSC : 37% .  ĐBSH : 29%  . Năm 2002 : ĐBSCL : 13 % . ĐBSH : 9% . ( Nhà x.b Thống kê – Hànội ,trang 13 – LVB trích dẫn )       Dù theo tiêu chuẩn nào : tiền tệ ( tính bắng tiền hay bằng gạo) – mức sống ( bao gồm lương thực , nhà ờ, mức sống văn hóa ) – ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH – bởi lẽ khi nghèo về  lương thực – thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá .                                        

Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học . Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt , nghe tận nơi của người viết : Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau , ăn bữa sáng lo bữa chiều – cái nghèo của một  nông dân , nhà dột nát .. khi trời mưa lúc ban đêm..không có chỗ để nằm  phải tìm một góc nhà ,phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp.. trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc…  Cái nghèo của một người đi mượn tiền , muợn gạo.. tới ngày hẹn không tiền trả.. Cái nghèo của một thanh niên  thất nghiệp .. cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ..mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa,mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân .                                

Tục ngữ bình dân có câu : Ít ai giàu 3 họ,khó 3 đời .-  Có . Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới.. ở sông Long Hồ.  Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy : nghề đi nhủi tép .. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay ( 2007 ) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái  nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch..  Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te .Đời ông nội – nghèo ! Đời cha nghèo ! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó.   Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo – không đổi đời cho người nghèo thành giàu .Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo. Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác – còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền ..trong khi dân số lại gia tăng quá tải . Cho nên thất nghiệp không thể tránh . Nghèo là hiện thực . Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng,viết  : ‘‘Nông dân đã nghèo,đất đã kém đi ,nhưng mỗi năm thêm  1 triệu miệng ăn,lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được ? ’’

 MIỀN NAM – 32 NĂM DƯỚI CHẾ ĐÔ C.S .

Kinh tế Việt Nam – trong đó có miền Nam – có chút tiến bộ – so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa . Nhưng chỉ là tiến bộ  với chính mình. Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt .. cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia ,để tài trợ các chương trình y tế ,giáo dục ( hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con ) – các chương trình tạo công ăn việc làm , phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không ? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch ? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể .. Và hiện tại – muốn phát triển công nghiệp – nhà cầm quyền địa phương – theo lệnh Đảng –  mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả , chiếm nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẩn uất , kêu la than khóc.. Oán hận ngút trời xanh ! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàgòn ) . Như vậy có gọi là phát triển không ?
 
KẾT  LU ẬN              

– 32 năm  nhìn lại :Người ta thấy miền Bắc đã ‘‘giải phóng’’ dân Sàigòn ra khỏi đất đai,nhà cửa của họ . Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô  hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau . ‘‘Giải phóng’’ miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú  do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ.‘‘Giải phóng’’quân nhân,viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà ,để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển …‘‘ Giải phóng’’ phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm ‘‘vợ nô lệ’’ , đi làm điếm ở Kampuchia , TháiLan ..  

– 32 năm nhìn lại : Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ .Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website(2003) – bị trưng bày trong lồng kính ,cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005) . Chỉ trong năm 2005 – có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc . (Theo UNI CEF – LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam ) 
– 32 năm nhìn lại : Mượn lời nhà báo Claude Allegre ,báo L’expresse ngày 29-8-2002 :‘‘ Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó . Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn . Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc – người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó ’’  
                  

– 32 năm nhìn lại : Miền Bắc XHCN rõ ràng  đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam – khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc .
Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước .Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo :‘‘ Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước .Mất cả đất đai,sông núi và dân tộc.Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu(Trích Người việt hải ngoại – Nguyễn văn Trấn)

PHÓ THƯỜNG DÂN

March 9, 2008

Vẫn chưa có giải pháp cho các nữ công nhân Việt Nam ở Jordan

2008.03.07

Thanh Trúc, phóng viên đài RFA

176 nữ công nhân Việt Nam sang lao động ở Jordan, bị cắt giảm lương thực và cho người hành hung vì hưởng ứng đình công để yêu cầu chủ nhân trả đúng mức lương đã ký trong hợp đồng trứơc khi rời Việt Nam.

Công nhân bị đánh bất tỉnh được chị em bạn chăm sóc. Hình của machsong.org

Đây là những người sang làm việc ở Jordan hồi tháng Giêng năm nay, cho một công ty may mặc do người Đài Loan làm chủ, có tên là W&D Apparel. Nhưng họ không phải nhóm đầu tiên qua Jordan mà trước đó đã có mấy chục người sang làm việc cho W&D Apparel rồi.

Nếu gộp chung lại thì hiện có hơn 200 người Việt làm trong xưởng may W&D Apparel, và chính nhóm đầu tiên đã từng bãi công để đòi mức lương đúng như đã ký trong hợp đồng. Họ được một trăm bảy mươi sáu người qua sau hưởng ứng đình công theo sau khi nhận thấy mình lâm hoàn cảnh tương tự như người đi trứơc.

Phần lớn những nữ công nhân sang Jordan làm việc cho hãng may W&A Apparel là người miền Bắc như chị Phương Anh ở Lào Cai, chị Luyến ở Phú Thọ, chị Thao và chị Hà Thái Bình. Những người này đi Jordan theo trung gian của công ty môi giới da giày Sơn Hoa.

Để sang được Jordan bằng con đường xuất khẩu lao động, phí tổn mỗi người phải đóng cho môi giới bên nhà là 25 triệu tiền Việt Nam.

Cuộc đình công của 176 lao động Việt đòi chủ nhân trả đúng mức lương ký theo hợp đồng nổ lớn ngày 10 tháng Hai. Hôm thưa Bảy ngày Một tháng Ba, Thanh Trúc gọi qua Jordan, được chị Phương Anh kể lại:

“Bắt đầu đình công thì công ty nói bọn em làm thế không tốt, công ty nói là hợp đồng đúng nhưng thật ra là không đúng. Xong rồi tụi em vẫn nhất quyết đình công. Sau đó thì cái ăn cái uống của tụi em ngày càng sa sút vì bọn em không đi làm, mỗi bửa họ chỉ cho ăn khoảng một chút cơm thôi mà cơm lại không có cái gì ăn cả.Khi mà cánh cảnh sát đến mà đánh bọn em ấy là có chị Ánh, có năm người rất là mệt, vì thế mà bọn em phải kêu cứu. Bây giờ tất cả bọn em phải quí xuống đây và xin ông bộ trưởng lao động là cứu bọn em về nứơc thôi ạ.”

Tiếp lời chị Phương Anh, chị Thao cho biết:

Nhiều người Việt Nam tìm cách ra nước ngoài làm việc với hy vọng kiếm tiền giúp đỡ gia đình. Tuy nhiên, tại xứ lạ quê người họ lại phải đối diện với rất nhiều khó khăn. (Hình chỉ mang tính minh họa). AFP PHOTO.

“Người ta vào người ta khuyên nhủ bọn em đi làm, bọn em bảo là ông chủ phải thực hiện cho bọn em theo đúng hợp đồng và bảo đảm quyền lợi cho bọn em trong vòng ba năm thì bọn em sẽ đi làm ngày, thế nhưng mà ông chủ không ký thì tụi em không đi làm. Thế là có xô xát xảy ra rồi cảnh sát xông vào đánh bọn em.Em chỉ biết là rất nhiều, em bị đánh không nặng, chỉ bị bầm tím thì bây giờ cũng khỏi rồi. Có một người bị sai khớp tay như kiểu là nó cầm tay kéo xuống đất xong nó cầm tóc nó ném đi. Đúng ra chị ấy bây giờ cũng còn sai khớp tay và hôm qua chị bị nôn ra máu. Còn chị Anh bây giờ tình trạng nói chung là sức khỏe tồi tệ lắm ạ.”

Bản tin về nữ công nhân ở Jordan bị hành hung vì bãi công được đăng tải trên báo Tuổi Trẻ phát hành trong nước. Tại Hoa Kỳ, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành Boat People SOS ở bang Virginia, đọc bản tin này và tìm cách liên lạc với những công nhân đang gặp khó khăn tại Jordan:

“Ngày 24 thì chúng tôi nhận được tin của báo Tuổi Trẻ về một trăm bảy mứơi sáu công nhân mà tuyệt đại đa số là nữ ngoại trừ bốn người nam, nói về trường hợp bị đánh đập không được trả lương như đã ký trong hợp đồng bắt làm việc mười sáu tiếng một ngày mà trả mức lương rất thấp không đủ sống.Chúng tôi lập tức báo cáo cho Bộ Ngoại Giao cũng như một số cơ quan khác Bộ Ngoại Giao đã giúp nối kết chúng tôi với cơ quan quốc tế IOM có văn phòng tại Amman thủ đô của Jordan. Trước khi liên lạc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chúng tôi tìm cách liên lạc với công nhân tại hãng xưởng may mặc có tên là W&D Apparel.” Thanh Trúc xin phép mở ngoặc để thưa cùng quí vị về vai trò của IOM, tức Tổ Chức Di Dân Quốc Tế, ở Amman, thủ đô Jordan. Thoạt đầu, khi nghe Boat People SOS báo tin những nữ công nhân Việt Nam ở công ty W&D Apparel vì bãi công mà bị bớt khẩu phần lương thực và bị đánh đập, một nhân viên IOM ở Jordan báo cho Bộ Lao Động xứ này biết.

Nhờ thế một phái đoàn đã vào được công ty để thăm hỏi công nhân Việt Nam. Thế nhưng trên nguyên tắc vai trò của IOM trong vụ này khá là hạn chế và tế nhị, IOM không thể làm gì được hơn cho tới khi nào chính quyền Jordan cho phép họ vào cuộc. Hiện Boat People SOS vẫn tìm cách vận động trực tiếp với chính phủ Jordan.

Tưởng cần biết Jordan có năm khu công nghiệp gọi là Qualified Industrial Zone, tạm dịch là Khu Công Nghiệp Đặc Lợi, và công ty W&D Apparel thuộc về một trong năm khu Công Nghiệp Đặc Lợi đó.

Vì sao vụ ngược đãi công nhân ở công ty may mặc W&D Apparel lại được Boat People SOS ở Hoa Kỳ trình báo lên Bộ Ngoại Giao Mỹ. Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng trả lời câu hỏi của Thanh Trúc:

“Khu Công Nghiệp Đặc Lợi có những đặc lợi về mậu dịch với Hoa Kỳ, những mặt hàng sản xuất trong khu vực đó được nhập cảng vào Hoa Kỳ mà không chịu thuế hải quan, và không có đỉnh số tức là không có quota, thành thử phần nào đó Hoa Kỳ liên đới với tình trạng hiện nay đang xảy ra ở công ty W&D Apparel.” Theo bản tin hôm thứ Ba vừa qua từ báo Dân Trí trên mạng, ông Trần Việt Tú, phó tổng lãnh sự Việt Nam tại Ai Cập, đã có mặt tại Jordan để tìm cách giải quyết vụ việc. Sáng thứ Ba giờ Washington tức xế chiều thứ Ba giờ Jordan, Thanh Trúc gọi qua Jordan, gặp chị Phương Anh và chị Hà. Mời quí vị nghe hai chị kể lại:

Phương Anh: Bắt đầu ông ấy đến là ông có hội ý . Thế nhưng khi nghe xong thì Phương Anh cảm thấy là ông Tu này hơi thiên về công ty một chút. Bởi vì là nếu như một người Việt Nam sang ma nhìn thấy bọn em ốm đau ngất xỉu rồi là không có gì ăn như thế thì ông phải can thiệp vào cái vụ đấy trứơc, sau đó mới nói đến chuyện công ty, về bản lương.

Thế nhưng đây thì ông cũng xem qua người ốm, mà cái chuyện đề nghị chỉnh bảng lương và về nứơc của bọn em, cái chuyện cảnh sát đánh bọn em thì ông không nói đến một chút nào cả.

Thứ hai nữa là cái kiểu là ông ấy cứ vin vào cái chuyện bọn em cắt đồ của người Việt Nam, ông ấy bảo như thế là sai.” Thanh Trúc: Cắt đồ của người Việt Nam là sao?

Phương Anh: Ý là cái đợt trứơc nói thẳng là bọn em bức xúc cho nên những người đứng lên cầm đầu người ta nói bọn em là từ nay hơn hai trăm người phải đợi bằng được để đòi cái công bằng để chị em mình đi làm. Nếu trong số hơn hai trăm người này có ai đi làm thì họ sẽ chặt chân và họ sẽ cắt nát đồ quần áo của bọn em ra.

Thanh Trúc: Ai nói điều đó?

Phương Anh: Thì cái chị đó bây giờ chỉ là người đi làm rồi ạ. Chính chị ấy đứng ra, bọn em công nhân mới sang chưa hiểu cái mô tê gì cũng đồng thanh là đình công. Thế nhưng ăn Tết xong họ lại đi làm họ không nói cho bọn em biết, bọn em bức xúc qua bọn em kéo đồ ra bọn em cắt luôn.

Thì em cũng kể cho anh Thắng và tất cả mọi người nghe hết rồi. Nhưng đấy là em cũng đã đứng lên lên xin lỗi ngay từ lần đầu tiên. Nếu như cần thì em và tất cả bạn bè trên này xin lỗi tất cả là vì quá bức xúc thì bọn em mới làm như thế.

Thế nhưng vì sao cảnh sát đánh bọn em vẫn còn thương tích vẫn ngất ông ấy bảo là cái gì ông ấy hỏi thì mới được nói, cái gì không hỏi là không được nói. Ông ấy nói với bọn em là thôi cái gì nó qua nó sẽ qua.

Em phải nói thẳng với ông ấy là chú sang đây chú can thiệp bọn cháu hay là chú bảo vệ công ty. Chú ấy chỉ vin vào chuyện bọn em cắt đồ và đình công quá mười bốn ngày là bừa bãi, về Việt Nam sẽ không được cái nọ cái kia.

Quanh đi quẩn lại ông ấy chỉ nói là bọn em đình công bừa bãi , thế thôi. Còn có một số người bảo cái vụ cảnh sát đánh thì ông ấy nói là chưa hỏi đến chưa được phép nói. Ông ấy lại nói là tại sao phải lên báo để mà kêu cứu cái ăn uống, ông ấy cảm thấy ăn uốmg như thế này là qua hợp lý.

Thanh Trúc: Bây giờ ý của Phương Anh hay là những chị khác là chỉ muốn về Việt Nam chứ không muốn ở lại?

Phương Anh: Tất cả chị ạ, chỉ một phần nhỏ ở lại vì sợ về Việt Nam không lấy được tiền cọc. Em không thể bỏ mạng mình ở đây được. Bởi vì chị Ánh này tối hôm qua chị sốt một cách kinh khủng luôn.

Khi mà đi viện thì người ta lại chuyền nước, đến khi về nhà lúc ấy anh Thắng gọi thì chị ấy sốt và giật không biết một cái gì. Khi em gọi người quản lý đến thì người quản lý nói là bệnh viện này không biết chữa bệnh, các bạn tự chăm sóc lấy nhau trứơc.

Gọi điện cho chú Tú thì chú Tú tắt máy. Không biết gọi cho bất cứ một ai, bọn em ôm nhau khóc.

Thanh Trúc: Chị Phương Anh cho hay từ ngày có ông Trần Việt Tú từ Cairo sang thì khẩu phần ăn uống của công nhân đình công có vẻ khá hơn. Tuy nhiên theo lời chị Hà thì vì không đi làm nên các chị không có tiền tiêu vào những việc cần thiết.

Hà: “Bọn em rất là đói, họ cho ăn rất là ít chị ạ, bọn em phải đi bán đồ mà em noi chị như là băng vệ sinh rồi là quần áo con này, để bọn em có tiền bọn em ăn uống và chăm sóc những người ốm, mua thuốc và mua thức ăn về để nấu cháo. Bây giờ bọn em rất là suy sụp tinh thần, chỉ có nguyện vọng duy nhất là được trở về nứơc thôi.”

Để tìm hiểu thêm, Thanh Trúc gọi về Phòng Thị Trường Lao Động thuộc Cục Quản Lý Lao Động Ngoài Nước, được viên chức ở đây cho hay:

(xin theo dõi trong phần âm thanh phía trên)

Môi giới hay trung gian đưa người đi Jordan làm việc là Công Ty Da Giày Việt Nam. Trên đường dây viễn liên gọi về Hà Nội, một nhân viên của Công Ty Da Giày Việt Nam nói với Thanh Trúc: Thực tế cho thấy Việt Nam phải giải quyết mọi trở ngại có thể xảy ra trên thị trường xuất khẩu lao động sang các xứ Trung Đông bởi đây là thị trường hứa hẹn. Một người Mỹ gốc Việt, giám đốc Y Tế Và Nhân Sự trong Uỷ Ban Hoa Kỳ Về Di Dân Và Tị Nạn, từng nhiều lần về Việt Nam làm việc trong các tổ chức ngoài chính phủ, phát biểu:

Vừa rồi là câu chuyện về các nữ lao động Việt Nam tại xưởng may W&D Apparel ở Jordan. Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi tạm ngưng ở đây. Thanh Trúc sẽ trở lại cùng quí vị tối thứ Năm tuần tới.

Theo dòng thời sự:

176 công nhân Việt Nam ở Jordan vẫn chưa trở lại làm việc

176 nữ công nhân Việt Nam ở Jordan bị chủ bỏ đói, bị hành hung

IOM tìm cách cứu giúp các nữ công nhân Việt Nam ở Jordan

February 7, 2008

Tuyên bố về vấn đề Hoàng Sa- Trường Sa của Đoàn Luật Sư TPHCM – Một vài hình ảnh

http://blog.360.yahoo.com/blog-Fqy69mcyequwJv.MxrhJO_sXCZbkCw–?cq=1   

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

_____________________

TUYÊN BỐ
VỀ VẤN ĐỀ HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
CỦA ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

XÉT RẰNG vào ngày 2/12/2007 Quốc vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý các quần đảo trên biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam;

XÉT RẰNG Việt Nam có chủ quyền bất khả xâm phạm đối với Hoàng Sa và Trường Sa cả về phương diện pháp lý (de jure) lẫn phương diện thực tế (de facto) theo Công pháp quốc tế; và

XÉT RẰNG chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa đã được ghi nhận rõ ràng trong nhiều tài liệu và chứng cứ lịch sử của cả Việt Nam lẫn Trung Quốc và quốc tế.

VÌ NHỮNG LẼ NÊU TRÊN

ĐOÀN LUẬT SƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TUYÊN BỐ

THỨ NHẤT, quyết định phê chuẩn việc thành lập thành phố Tam Sa của Quốc vụ Viện Trung Quốc là sự phủ nhận lịch sử và bất chấp công lý về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

THỨ HAI, Hoàng Sa và Trường Sa đã, đang và sẽ mãi mãi là lãnh thổ không tách rời và bất khả xâm phạm của Việt Nam cả về phương diện pháp lý (de jure) lẫn phương diện thực tế (de facto).

Ngày 5 tháng 1 năm 2008

Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh

Chủ nhiệm

LS. NGUYỄN ĐĂNG TRỪNG

Hình ảnh buổi đọc Tuyên bố về Hoàng Sa và Trường Sa

 Ông Nguyễn Thành Tài tại Hội nghị (trước khi đọc Tuyên bố)

Luật sư Nguyễn Văn Trung – Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lý do Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh ra bản Tuyên bố về Hoàng Sa và Trường Sa 

“Sông núi nước Nam, dân Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời.”

Hàng ngàn cánh tay biểu thị sự quyết tâm và đồng thuận. (Tiếc quá! lãnh đạo TP về mất rồi!)

Yếu tố bất ngờ, đúng thời điểm và hợp pháp đã giúp cho buổi đọc Tuyên bố và biểu thị thái độ được thực hiện đầy đủ và đúng như mong đợi của hơn hai nghìn luật sư.

“Chúng ta biểu thị thái độ kiên quyết bảo vệ hai quần đảo thân yêu Hoàng Sa và Trường Sa!” ( LS Nguyễn Đăng Trừng – Chủ nhiệm LS Đoàn TP)

Luật sư Lê Công Định – Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, người chấp bút bản Tuyên bố về Hoàng Sa và Trường Sa.

Nguồn : Blog LS Trừng Nguyễn

@ Bình luận :

Chắc quý vị không quên Ông Nguyễn Thành Tài đã đứng trước toàn thể SV-HS và ” dõng dạc ” hứa lèo chuyện gì vào ngày 09/12/2007 … ?

Có lẽ biết mọi người không tin ông ta, nên ông ta cầm microphone đã hỏi

” Tại sao tôi tin các bạn mà các bạn không tin tôi”

Hehehe Không biết các bạn có tin không, chứ riêng tôi thì khẳng định 1 câu chắc như đinh đóng cột là ông ta đã ” hứa cuội” ( tính đến thời điểm 1 tháng sau lời hứa cuội đó)

13

Và 1 tháng sau chuyện gì lại xãy ra …

Trước khi đọc bản Tuyên Bố về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa của LS Đoàn TP. Ông Tài có mặt tại hội nghị. Các bạn thử nhìn ở hàng ghế các luật sư ngồi phía sau nhé , mọi người đều hừng hực khí thế và chăm chú lắng nghe… Riêng bác Tài nhà ta … trán nhăn nhăn ( hình như khuôn mặt có vẻ khá căng thẳng nhỉ ) Không biết tớ đoán có sai không nữa.

14

16

Bản tuyên bố này thành công rực rỡ với hàng ngàn cánh tay giơ lên từ các luật sư phía bên dưới tham dự hội nghị cũng như phía trên lầu. Đây là một sự khẳng định và đồng thuận cho bản tuyên bố nói trên. Hội nghị Diên Hồng của TK 21. Ấy thế mà, lại phát hiện ra.. vị đại diện của Lãnh đạo TP đã ” bỏ về” hồi nào không hay. Xin nhìn và so sánh hàng ghế và vị trí ngồi của ông Tài (hình bên trên và vùng khoanh đỏ của hình bên dưới ).

Nếu là một lãnh đạo có lòng yêu nước tha thiết,có lương tâm, lương tri và trách nhiệm . Không ai ” đành lòng ” bỏ về trong lúc khí thế của mọi luật sư thành viên trong LS Đoàn TP hừng hực và quyết liệt trong vấn đề bảo vệ chủ quyền đất nước như vậy. Sự kiện ông Tài bỏ về giữa lúc Đoàn Luật Sư giơ tay biểu quyết này .. chúng ta nên đánh giá và nhìn nhận như thế nào đây ???

Có còn điều gì quan trọng và thiêng liêng hơn “hội nghị tuyên bố xác định chủ quyền Tổ Quốc” của LS Đoàn TP. Trong khi đó ông Nguyễn Thành Tài – Đại diện cho lãnh đạo thành phố được mời đến tham dự mà lại bỏ về giữa buổi hội nghị. ???

Câu trả lời nhường lại cho các bạn

TrangDem

Tags: tuyênbốcủađoànluậtsưtp

Friday January 25, 2008 – 07:32am (ICT) Permanent Link | 4 Comments

Blog at WordPress.com.